THƠ THIỀN VƯƠNG DUY

Vương Duy tự họa

        LỜI NGÕ

         Đạo Phật là dấu ấn đậm nét lên dòng thơ Vương Duy thời trai trẻ. Vì lẽ đó, người đương thời gọi ông là Thi Phật Vương Duy,  bên cạnh Thi Tiên Lý Bạch, Thi Thánh Đỗ Phủ. Ngay yếu tố ban đầuấy đã có nét riêng Duy Ma Cật và càng về sau, chất thiền càng lắng sâu vào thơ ông.                
       Ở đây, chúng tôi không có ý định đi sâu phân tích mà chỉ nói sơ lược đôi nét thiền trong thơ Vương Duy, theo cảm nhận nông cạn của chúng tôi khi đọc thơ ông.                             
.
         Ngoài ra, chúng tôi cũng dịch một số bài thơ  có nội dung nói trên, theo thể lục bát, để tiện việc đối chiếu tham khảo. Do vậy, chúng tôi còn nhiều thiếu sót, rất mong các bật tiền bối, thân hữu và đọc giả góp lời chỉ giáo.

                  Thủ Đức, trọng thu 2008
           Đoàn Thuận






           .tranh và bút pháp của Vương Duy

.
            

THIỀN TRONG THƠ VƯƠNG DUY.

      Nguồn gốc ảnh hưởng.                .
       1.Hoàn cảnh xuất thân.                  .
        Năm 701, Vương Duy ra đời tại Kỳ Huyện,Thái Nguyên, vào năm đầu niên hiệu Đại Túc Vũ Tắc Thiên, trong thời cực  thịnh của Phật Giáo. Từ nhỏ, Vương Duy chịu ảnh hưởng của mẹ ông, Thôi phu nhân, một phật tử thuần thành. Lớn lên, ông thường đọc kinh Phật và kinh điển của  Lão giáo. Do vậy, ông sớm nhận ra cái vô vị của lợi danh huyễn hoặc, coi nhẹ những hệ luỵ của cuộc đời.                          .
      2. Hoạn lộ thăng trầm.                    .
       Năm 721, Vương Duy đậu tiến sỹ, được bổ chức Đại Nhạc Thừa. Từ đây, ông sớm bước vào hoạn lộ, sớm nổi danh về thi ca, cũng sớm tham dự vào cuộc sống của giới thượng lưu vương giả. Nhưng cuộc đời làm quan của ông cũng gặp nhiều trắc trở.          .
       Năm 723, ông bị truất đi Tế Châu rồi đến Dương Châu giử chức Tư Thương Tham Quân và một lần nữa vào năm 737, ông bị chuyển ra miền biên ải Hà Tây làm Tiết Độ Ngự Sử.Trong những chuyến đi về giữa Trường An đô hội và miền biên giới hoang sơ, dường như Vương Duy tìm gặp một thoáng yên tịnh nơi núi vắng rừng sâu trước bao biến dịch nơi cõi tục. Đó chính là bước ngoặc đầu tiên trên hoạn lộ gập ghềnh, cũng là bước ngoặc lớn trong thơ ông. Vương Duy đã bỏ lại sau lưng cuộc đời gấm hoa mộng mị, từ giả những câu thơ ngâm vịnh thù tạc chốn quan trường, để vào thế giới thơ bình đạm tĩnh lặng, thế giới thơ Vương Ma Cật.

          Lần giáp mặt với biến cố An Lộc Sơn, năm 755, ít nhiều giúp Vương duy nhận ra chân diện mục của cõi vô thường và lần bước theo con đường dưỡng sinh toàn chân của Lão Trang

         3. Tháng ngày ẩn dật.                      .
        Năm 727, Vương Duy từ quan, ngao du sơn thủy, đặc biệt tại miền Tung Sơn và Vu Sơn, nơi ông thường gặp các ẩn giả đạo sỹ phái Thiền tông.                    
.
       Năm 730, vợ ông qua đời lúc ông vào thời hiển đạt.Dù nổi tiếng một bậc tài danh, được đời ngưỡng mộ, ông vẫn sống cô độc và thường chú tâm học thiền, bắt đầu ăn chay trường. Sau đó, ông mua Lam Điền Sơn Trang ở Võng Xuyên, làm cõi đi về giữa hai cảnh giới: chốn quan trường náo nhiệt và nơi sơn thuỷ tịch mịch.
        Năm 750, mẹ ông qua đời, ông về Võng Xuyên cư tang mẹ hai năm. Nơi đây, ông sống thanh đạm, làm bạn cùng cỏ cây, gần như chìm vào cảnh giới tĩnh mạc, trước thiên nhiên u nhàn.

        Ba nguồn gốc ảnh hưởng nói trên, có lẽ, đã tạo nên phong cách Thi Phật Vương Duy mà bao trùm lên tất cả là tâm giới tĩnh lự tức lòng thiền vậy.

 

         Saigon, 1969.                                                                   .
      CÁT SỸ

.

Chất Thiền                          .
trong thơ Vương Duy.                  
.       
            

       Vương Duy không phải là một tăng lữ, ông là một quan chức triều đình nhưng ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng Phật Giáo từ lúc còn trẻ. Ông thường đi về giữa chốn Trường An đô hội và nơi tự viện Lam Điền yên tĩnh. Ông sống cuộc đời nửa quan nửa ẩn, tâm xuất gia mà thân không xuất gia./                    .
          Thơ Vương Duy, phản ánh chính kinh nghiệm đời ông giữa lòng vạn hữu, thấm đẫm chất thiền. Chúng tôi, người đọc và dịch thơ ông, cảm nhận chất thiền ấy bên kia lời thơ mà ông đã thể hiện qua hai phương thức: thiền ngữ và thiền cảnh.                          
.        
          1.Thiền ngữ.                         
:
           Trong một số bài thơ, Vương Duy dùng ngôn từ câu cú kinh điển Phật học để bày tỏ những suy nghĩ về vũ trụ nhân sinh của Phật Giáo.Từ thế giới hiện tồn, Vương Ma Cật nhìn về cõi nhân sinh khoáng đạt, vượt khỏi sự tồn hữu, vươn tới cảnh giới không tịch. Người đọc có thể nhận ra rằng Vương Duy đã dùng thiền ngữ để biểu đạt về Đạo Phật qua một số bài thơ sau:                         
           Hạ nhật quá Thanh Long tự yết Thao thiền sư, Quá Hương Tích tự, Quá Phúc thiền sư Lan Nhược, Phạn Phúc Phủ Sơn tăng, Khổ nhiệt, Nạp lương, Thán bạch phát, Tứ Thanh tự Tống chấp nhị,…

           2. Thiền cảnh:                        .
          Vương Duy viết nhiều, cũng vẽ nhiều, về thiên nhiên ở dạng tĩnh. Phần lớn ông mô tả cảnh núi sông biên ải khoáng đạt và cảnh ruộng vườn yên ả. Cảnh tĩnh lặng, ý trầm tư, lời bình dị quyện vào nhau, thể hiện tâm an lạc, gợi mở về lẽ vô thường vô ngã, về thế giới sinh diệt.                            

         Vương Duy dùng thiền cảnh để nói về thiền lý qua hai thời kỳ khác nhau: thời trai trẻ và thời bán quan bán ẩn.                           .
         a. Ở thời trai trẻ, buổi đầu đời, Vương Duy tả cảnh núi sông hùng tráng với tâm trạng nhập thế đầy chất lãng mạn. Trong một số bài ngâm vịnh, tình thơ và ý thiền kết hợp nhuần nhuyễn, như trong  Hàn Giang lâm phiếm, Vịnh Lý lăng.                         
….      
        b. Ở thời bán quan bán ẩn, Vương Duy làm quan nhưng vẫn tìm đến phút giây ẩn tàng. Cảm hứng chủ đạo ở đây không còn khí thế hào mại phóng khoáng mà là tâm thế tĩnh lự đậm chất triết lý về lẽ tồn tại, thể hiện ý thức qui ẩn an nhiên.                            .       
           Ở đó, gió lùa qua khóm trúc , nước suối len qua khe đá, trăng lặng lẽ soi, chim hót nơi núi vắng, hoa rơi trên cỏ biếc, tiều phu về sơn thôn, cửa tre khép im trong chiều…..Tất cả dường như mang vẻ tĩnh tại đạm bạc đầy phong vị thiền. Cảnh giới đầy sắc màu là vẻ ngoài của cõi nhân sinh không tịch diệt, luôn hoá kiếp và tâm giới đầy vẻ quan hoài tự lắng vào cõi tịnh yên tĩnh không. Ở đó cũng diễn ra cảnh chia ly của một kiếp người hữu hạn.Kẻ ở người đi, tiễn đưa lưu biệt, trông ngóng đợi chờ, quạnh quẽ cô đơn, man mác ngậm ngùi, nhưng không đẫm lệ sầu bi mà nỗi niềm nhẹ tênh như mây trôi về cuối trời, hoa rơi không âm thanh, chiều xuống sau núi vắng, ánh mắt dõi theo bóng người đi. Một nỗi buồn dịu êm đọng lại trong núi rừng u tịch muôn thu    Thiền cảnh chính là nơi Vương Duy an thiền nhầm dứt bỏ mọi vọng tưởng tạp niệm, đạt đến trạng thái an lạc, dù trong khoảnh khắc.            
.
       Nói gọn lại, thiền ngữ và thiền cảnh chỉ là phương thức để Vương Duy bày tỏ về thiền lý. Vì vậy, chất thiền trong thơ Vương Duy ở bên kia lời bình đạm, ẩn tàng trong thi tứ và thi ảnh.

.

                      THƯ SỰ

         Khinh âm các tiểu vũ
        Thâm viện trú dung khai
        Tọạ khan thương đài sắc
         Dục thướng nhân y lai

                                   VƯƠNG DUY

 GHI LẠI

Gác mờ tối ,mưa phùn
Viện sâu,ban ngày biếng mở
Ngồi nhìn sắc rêu xanh
Muốn lan lên áo người
*
Gác mờ nhẹ bóng mưa phùn
Ban ngày biếng mở mịt mùng viện sâu.
Ngồi nhìn rêu biếc xanh màu
Tưởng như muốn phủ lên bâu áo người.

.

     ĐĂNG BIỆN GIÁC TỰ

 

   Trúc kính tòng Sơ Địa
   Liên phong xuất Hoá Thành
   Song trung Tam Sở tận
   Lâm thượng Cửu Giang bình
   Nhuyễn thảo thừa điệt toạ
  Trường tùng hưởng Phạn thanh
  Không cư Pháp Vân ngoại
  Quán thế đắc vô sinh.

LÊN CHÙA BIỆN GIÁC

Đường trúc theo Sơ Địa
Núi Sen vượt khỏi Hoá Thành.
Sau song cửa,Tam Sở tan,
Trên rừng Cửu Giang bình lặng.
Cỏ nhuyễn ngồi kiết toạ,
Tùng cao vang tiếng kinh Phạn
Ở nơi trống không ngoài mây Pháp
Ngẫm về đời nhận ra cõi vô sinh.
*
Trúc theo Sơ Địa mở đường
Núi Liên Hoa hiện một phương Hoá Thành.
Tận cùng Tam Sở sau mành,
Cửu Giang bình lặng chảy quanh mé rừng.
Cỏ mềm kiết tọa thiền chân,
Thanh âm kinh Phạn mấy tầng dưới thông.
Ở ngoài Vân Pháp Địa không,
Tĩnh tâm quán thế được vòng diệt sinh.

.

.

 

Thiền lộ

       Bắt đầu “Đăng Biện Giác tự” là một lối trúc dẫn qua miền Sơ Địa, miền đất ban sơ mở ra hành trình của Đại Thừa Bồ Tát Thập Địa. Từ đó, hành giả lên đỉnh Liên Phong và cuối cùng vào cõi “không cư Pháp Vân Địa”, nơi mây pháp tuôn chảy dòng cam lộ. Phải chăng Vương Duy muốn nói đến mười chặng đường tu dưỡng của một Đại Thừa Bồ Tát? Từ Sơ Địa muốn tới Pháp Vân Địa, một Bồ Tát phải trải qua Thập Địa như Hoan Hỉ Địa, Ly Cấu Địa, Phát Quang Địa, Diễm Huệ Địa, Cực Nan Thắng Địa, Hiện Tiền Địa, Viễn Hành Địa, Bất Động Địa, Thiện Huệ Địa và sau rốt về Pháp Vân Địa.                  .
        Vương Duy là một hành giả đang có mặt ở cõi sinh trụ dị diệt. Nói theo cách khác, Vương Duy là một lữ hành tìm đất trọ bình yên để gửi tạm kiếp phù sinh của mình.       
       1. Năm 701, Vương Duy bắt đầu cuộc đời trong một gia đình Phật tử thuần thành, mẹ và em đều qui y ăn chay. Lời kinh tụng niệm nơi miền Sơ Địa ấy đã đưa Vương Ma Cật từng bước vào thiền lộ giữa hoạn lộ gập ghềnh.
         Thiền lộ mở dần về  hướng“vạn pháp giai không”, giúp ông ngộ được sự vật hữu hình hay vô hình luôn biến đổi, vô thường trong thời gian vô ngã trong không gian, chỉ có chân tâm là hằng hữu. Dù hoạn lộ đã dẫn dụ ông vào cuộc sống quí tộc chốn cung đình, ông vẫn nhận ra kiếp sống ấy là phù huyễn, thân tâm này là mộng mị, thanh sắc kia là giả vọng và ông chọn lối tu niệm về cảnh giới “thường lạc ngã tịnh” ngay chốn phồn hoa đô hội.                        
.
         Vương Duy sống đời thế tục nhưng vẫn đi theo con đường Bồ Tát, như cư sỹ Duy Ma Cật.

              2. Năm 30 tuổi, vợ ông mất.                     .
            Dù đang độ thanh xuân giữa cuộc sống quyền quí cao sang, Vương Duy vẫn không tục huyền.Từ đây, Vương Duy chuyển sang tu hành thanh tịnh. Sau những buổi triều chính, ông lui về nhà riêng thấp hương tụng niệm kinh Phật, dưỡng sinh toàn chân, tĩnh lự về lẽ sinh diệt của kiếp người. Ông tập trung nghiên cứu về đạo Phật và qui y với thiền sư Đại Quang dù đã nổi danh trên hoạn lộ.                                      
.
         Năm 750, mẹ ông qua đời. Vương Duy cáo quan về cư tang mẹ hai năm và biến tư thất ở Võng Xuyên thành tự viện để thờ mẹ. Tại đây, ông sống một mình, mặc áo vải, ăn chay trường; hàng ngày tụng kinh, đàm thiền cùng các vị ẩn giả đạo hữu, an vui với cánh điền viên sơn thuỷ                           
.
          Có thể nói, Võng Xuyên biệt nghiệp của Vương Duy không khác chi Lộc Dã Uyển của Phật Đà, cõi tịnh độ đầy Mây Pháp.

          Hà Tiên, mộ thu 1972                               .
           CÁT SỸ

 .

 

 

 

           QUÁ HUƠNG TÍCH TỰ

         Bất tri Hương Tích tự
       Sổ lý nhập vân phong
       Cổ mộc vô nhân kính
       Thâm san hà xứ chung
       Tuyền thanh yết nguy thạch
       Nhật sắc lãnh thanh tùng
       Bạc mộ không đàm khúc
      An thiền chế độc long

                             VƯƠNG DUY

QUA CHÙA HƯƠNG TÍCH

Không biết chùa Hương Tích
Mấy dặm vào đỉnh núi mây
Dưới cây già, không lối người đi
Giữa núi sâu, từ đâu vọng tiếng chuông
Tiếng suối lan ra từ đá cao
Sắc ngày làm lạnh cây tùng xanh
Chiều phai bên bờ đầm vắng
Ngồi thiền để chế ngự “Độc.long”

*
Chùa Hương Tích biết đâu nào
Dặm ngàn bao nã đi vào núi mây.
Cây già không lối người đây
Núi sâu vẳng tiếng chuông bay nơi nào.
Suối trong tràn vách đá cao
Sắc ngày hơi lạnh thấm màu thông xanh.
Chiều bên đầm vắng phai nhanh
Ngồi thiền chế ngự ngọn nghành Độc long .

Cảm nhận.
* Không biết chùa Hương Tích ở đâu phía núi đầy mây, giữa rừng cây cổ thụ, không lối mòn, không dấu người.
    Tất cả thanh tịnh u nhàn đến tĩnh không.
* “Bất tri” “hà xứ” “vô nhân kính” nhưng mơ hồ nghe tiếng chuông nơi núi sâu,nghe tiếng suối trong len vách đá; thấy sắc ngày lạnh cả thông xanh khi chiều xuống ven đầm vắng.
     Cảnh tĩnh nhưng không tịch diệt.Thế giới sắc không biến đổi vô thường.
* Nơi ấy, nếu tĩnh tâm định thiền, ta có thể chế ngự những vọng niệm,tìm về cõi an lạc.


.

      QUÁ LÝ ẤP TRẠCH

      Nhàn môn thu thảo sắc
      Chung nhật vô xa mã
      Khách lai thâm hạng trung
      Khuyển phệ hàn lâm hạ
      Tán phát thời vị trâm
      Đạo thư hành thượng bã
      Dữ ngã đồng tâm nhân
      Lạc đạo an bần giả
      Nhất bãi Nghi Thành chước
     Hoàn qui Lạc Dương Xã.

 

QUA NHÀ LÝ ẤP

Cổng vắng đầy sắc cỏ thu
Suốt ngày không xe ngựa
Khách đến trong hẻm sâu
Chó xủa dưới rừng lạnh
Tóc xoã có khi chưa cài
Sách Đạo trong tay đi dạo
Người đồng tâm với ta
Người an bần lạc đạo
Sau tiệc rượu Nghi Thành
Lại về Lạc Dương Xã.
*
Cổng yên sắc cỏ thu hoè
Suốt ngày vắng vẻ không xe ngựa vào.
Khách thăm đến tận hẻm sâu
Dưới rừng hoang lạnh chó đâu xủa dài.
Đôi khi tóc xõa chưa cài
Dạo chơi sách Đạo trong tay niệm thầm.
Với ta thân hữu đồng tâm
An bần lạc đạo tháng năm yên lành.
Khi tàn tiệc rượu Nghi Thành
Lại về Bạch Xã lầu thành Lạc Dương.

 

 

 

 

       QUÁ CẢM HOÁ TỰ

        Mộ trì cùng trúc trượng
       Tương đãi Hổ Khê đầu
       Thôi khách văn san hưởng
       Qui phòng trục thuỷ lưu
       Dã hoa tùng phát hảo
  鳥一        Cốc điểu nhất thanh u
       Dạ toạ không lâm tịch
       Tùng phong trực tự thu

                             VƯƠNG DUY

 

QUA CHÙA CẢM HOÁ

Chiều chống cây gậy trúc
Đợi nhau đầu Hổ Khê
Giục khách nghe âm núi
Về phòng theo  nước trôi
Khóm hoa quê nẩy đẹp
Chim hang một tiếng  buồn
Đêm ngồi rừng vắng lặng
Gió tùng tựa thu sang
*
Gậy tre đưa bước chiều về
Hẹn chờ nhau phía Hổ Khê đầu nguồn.
Núi non vang giục khách buồn.
Nương theo dòng nước qua truông về nhà.
Cây đồng quê nở đẹp hoa
Chim trong hang tối tiếng ca u trầm.
Đêm ngồi rừng vắng lặng câm
Gió tùng như gọi âm thầm thu sang.


       TƯ THÁNH TỰ
廿           TỐNG CHẤP NHỊ

  Phù sinh tín như ký
  Bạc hoạn phù hà hữu
   Lai vãng bản vô qui
  Biệt ly phương thử thụ
  Liễu sắc ái xuân dư
  Hòe âm thanh hạ thủ
  Bất giác ngự câu thượng
  Hàm bi chấp bôi tữu.

NƠI CHÙA TƯ THÁNH
TIỄN CHẤP NHỊ

Sống nổi trôi như ở tạm
Chức quan mỏng có đáng gì
Đi lại vốn chẳng phải là “về”
Biệt ly phải chịu ở cõi này
Sắc liễu làm dịu lúc cuối xuân
Bóng hoè thêm trong mát ngày đầu hạ
Bất giác trên bến ngự câu
Ngậm buồn nâng chén rượu đưa tiễn
.
*
Nổi trôi cuộc sống ở nhờ
Chức quan mỏng mảnh ngù ngờ đáng chi.
Đi về đâu phải là “qui”,
Cõi này chịu cảnh biệt ly đôi lần.
Liễu xanh dịu sắc cuối xuân,
Bóng hoè rợp mát ngày phân hạ đầu.
Bất ngờ trên bến ngự câu,
Ngậm buồn nâng chén rượu hầu tiễn đưa.

 

 

鬢夏                  HẠ NHẬT
       QUÁ THANH LONG TỰ

       Long chung nhất lão ông
       Dư bộ yết Thiền Cung
       Dục vấn Nghĩa Tâm nghĩa
       Dao tri Không Bệnh không
       San hà thiên nhãn lý
       Thế giới pháp thân trung
       Mạc quái tiêu viêm nhiệt
       Năng sinh đại địa phong

                             VƯƠNG DUY

NGÀY HẠ
QUA CHÙA THANH LONG

Rung rẩy một ông già
Bước chậm rãi đến yết kiến Thiền Cung
Muốn hỏi nghĩa của Nghĩa Tâm
Biết lơ mơ rằng không có Không Bệnh
Núi sông trong mắt trời
Thế giới giữa thân pháp
Chớ lấy làm lạ khi nóng bức tiêu tan
Có thể bùng lên cơn dông dữ
*
Rung rung chỉ một ông già
Thiền Cung quá bộ thật thà hỏi thăm.
Muốn nghe nghĩa của Nghĩa Tâm
Tưởng không Không Bệnh hiểu lầm không thôi.
Núi sông ở giữa mắt trời
Một bầu vũ trụ trong đời pháp thân.
Lạ chi nóng bức tiêu dần
Đất bằng nổi trận phong trần bão giông.

.


       ĐỀ SAN TĂNG PHÒNG

         Song ảnh dao quần mộc
       Tường âm tái nhất phong
       Dã lô phong tự nhiệt
       San đối thuỷ năng thung
       Cần học phương tri ngộ
       Vi quan hảo dục dung
       Cao Tăng minh bất kiến
       Nguyệt xuất đãn văn chung

                             VƯƠNG DUY

ĐỀ TĂNG PHÒNG TRÊN NÚI

 Trước cửa sổ, giao động ảnh của đám cây
Trên tường, in lờ mờ bóng đỉnh núi
Lò ngoài đồng,gió tự làm hừng lửa
Cối trên núi,nước thường xuyên giã gạo
Chăm  học mới biết lầm lẫn
Làm quan dễ sinh biếng lười
Cao Tăng ngủ ở đâu không thấy.
Trăng lên,chỉ nghe tiếng chuông.
*
Ngoài song lay động bóng cây
Lờ mờ in đỉnh núi mây lên tường.
Lò quê gió thổi lửa hừng
Trên non nước đổ cối buông tiếng chày.
Học chăm mới biết lầm đây
Làm quan dễ giục người hay biếng lười.
Cao Tăng ngủ chẳng thấy người
Chỉ nghe chuông vọng chân trời trăng lên.

.

               THÁN BẠCH PHÁT

         Ngã niên nhất hà trường
       Mấn phát nhật dĩ bạch
       Phủ ngưỡng thiên địa gian
       Năng vi kỷ thời khách
       Trù trướng cố san vân
       Bồi hồi không nhật tịch
       Hà sự dữ thời nhân
       Đông thành phục nam mạch

                             VƯƠNG DUY

THAN TÓC BẠC

Tuổi ta đã già lắm rồi
Mái tóc ngày một trắng
Cúi ngữa giữa khoảng đất trời
Có thể làm khách bao lâu nữa
Ngậm ngùi  mây núi cũ
Bồi hồi ngày đêm vắng vẻ
Còn việc gì với đời
Thành đông rồi lại bờ nam.
*
Tuổi ta mới đó đã cao
Một ngày mái tóc bạc bao nhiêu rồi.
Ngửa nghiêng giữa khoảng đất trời
Bao lâu làm khách quán đời nữa đây.
Ngậm ngùi núi cũ mây bay
Bồi hồi vắng lặng hết ngày sang đêm.
Với đời còn việc gì thêm
Thành đông rồi lại qua thềm bờ nam.

.

     BIỆT ĐỆ TẤN HẬU      
      ĐĂNG THANH LONG TỰ
      VỌNG LAM ĐIỀN SƠN

   Mạch thượng tân biệt ly
   Thương mang tứ giao hối
   Đăng cao bất kiến quân
   Cố san phục vân ngoại
   Viễn thụ tế hành nhân
  Trường thiên ẩn thu tái
   Tâm bi hoạn du tử
   Hà xứ phi chinh cái ?

SAU KHI CHIA TAY EM TẤN
LÊN CHÙA THANH LONG
NGÓNG VỀ NÚI LAM ĐIỀN

Trên đường quê , cuộc chia tay mới.
Mênh mang bốn cửa ô tối
Lên cao không thấy em
Núi cũ lại ngoài mây
Cây xa khuất người đi
Trời rộng dấu ải thu
Lòng thương quan như kẻ lãng du
Nơi nào bay chiếc lọng của người đi xa ?

*
Cuộc chia tay mới trên đường
Mênh mang bốn cửa ô buồn tối sâu.
Lên cao không thấy em đâu.
Núi xưa ngút mắt ngoài bầu trời mây.
Người đi khuất phía ngàn cây,
Trời cao che kin ải đầy sắc thu.
Thương quan tựa kẻ lãng du
Nơi nào bay chiếc lọng mù xa đi ?

.

.

                        SAN TRUNG

         Kinh Khê bạch thạch xuất
       Thiên hàn hồng diệp hi
       San lộ nguyên vô vũ
       Không thuý thấp nhân y

                               VƯƠNG DUY

 TRONG NÚI

 Ở Kinh Khê đá trắng hiện
Trời lạnh lá đỏ ít
Đường núi còn nguyên không mưa
Màu xanh khoảng không thấm ướt áo người.

 *
Kinh Khê đá trắng lô nhô
Lạnh trời còn ít lá khô lá vàng.
Không mưa đưởng núi vẫn hoang
Màu trời xanh thấm ướt sang áo người.

.

       SAN CƯ TỨC SỰ

         Tịch mịch yểm sài phi
       Thương mang đối lạc huy
       Thước sào tủng thụ biến
       Nhân phóng tất môn hi
       Nộn trúc hàm tân phấn
       Hồng liên lạc cố y
       Độ đầu đăng hoả khởi
       Xứ xứ thái lăng qui

                             VƯƠNG DUY

CHUYỆN Ở NÚI

 Vắng lặng khép cổng tre
Mênh mang trước bóng chiều rơi
Chim khách làm tổ đầy trên cây tùng
Người thăm hỏi cổng cây ít dần
Trúc non ngậm phấn mới
Sen hồng rụng lớp áo cũ
Bến đò nổi lên ánh lửa đèn
Nơi nơi người hái ấu về.

*
Cổng tre vắng lặng khép rồi
Bóng chiều rơi trước chân trời mông lung.
Tổ chim khách khắp cây tùng
Ít người thăm hỏi lạnh lùng cửa cây.
Tre non ngậm phấn mới dầy
Hoa sen hồng rụng những đài áo xưa.
Lửa đèn phía bến đò đưa
Nơi nơi người hái ấu vừa về thôn.

.

    QUI TUNG SAN TÁC

   Thanh xuyên đái trường bạc
   Xa mã khứ nhàn nhàn
   Lưu thủy như hữu ý
   Mộ cầm tương dữ hoàn
   Hoang thành lâm cổ dộ
滿    Lạc nhật mãn thu san
   Thiều đệ Tung cao hạ
   Qui lai thả bế quan

THƠ LÀM
KHI VỀ TUNG SAN

Sông trong mang theo cỏ rậm dài
Xe ngựa đi ung dung
Nước chảy như có ý
Chim chiều cùng nhau về
Thành hoang tiếp tới bến đò cũ
Bóng chiều đầy núi thu
Xa lắc dưới núi Tung cao
Về rồi đóng cổng lại thôi.
*
Sông trong mang cỏ rậm dài,
Ung dung xe ngựa đường ngoài ngược xuôi.
Nước trôi như hiểu ý người.
Chim chiều về tổ bên trời cùng sang.
Bến đò cũ tiếp thành hoang.
Núi thu theo bóng chiều tàn khuất mau.
Đường xa lắc dưới Tung cao
Về rồi đóng cánh cổng rào lại thôi.

 

 .

 

 

          SAN THÙ DU

   Châu bảo san hạ khai
   Thanh hương lãnh cánh phát
   Hạnh hữu tùng quế hoa 
   Song tiền hướng thu nguyệt.

                                   VƯƠNG DUY

THÙ DU NÚI

[như] châu ngọc dưới núi bày ra
Hương trong lạnh lại toả khắp
Yên vui nở từng chùm hoa quế
Ở trước song cửa hướng về trăng thu.
*
Như châu ngọc dưới núi bày
Hương trong lành lạnh toả đầy không gian.
Chùm hoa quế nở thanh nhàn,
Hướng về trước cửa trăng vàng mùa thu.

.

         VỌNG CHUNG NAM SAN
          tặng TỪ TRUNG THƯ          

         Vãn hạ hề Tử Vi
 Trướng trần sự hề đa vi
        Trú mã hề Song Thụ
 Vọng thanh san hề bất qui

 王維                              VƯƠNG DUY

 BÀI CA NGÓNG NÚI CHUNG NAM
tặng quan TRUNG THƯ họ Từ

Chiều xuống chừ Tử Vi
Chán việc đời chừ ngang trái
Dừng ngựa chừ  Cây Đôi
Ngóng núi xanh chừ chẳng về

 *
Chiều chừ xuống núi Tử Vi
Việc đời chán ngán chừ thì trái ngang.
Cây Đôi chừ ngựa dừng sang
Núi xanh chừ ngóng mênh mang chẳng về.

.

               HOA TỬ CƯƠNG

         Phi điểu khứ bất cùng
       Liên san phục thu sắc
       Thượng hạ Tử Hoa cương
       Trù trướng tình hà cực

                           VƯƠNG DUY

 NÚI HOA TỬ

 Chim bay đến nơi chẳng cùng
Núi liền nhuộm một màu thu
Trên dưới núi Hoa Tử
Bùi ngùi tình sao dứt
 *
Chim bay về cõi vô cùng
Núi liền một dải chập chùng sắc thu.
Dưới trên Hoa Từ đỉnh mù
Bùi ngùi tình chẳng biết từ nơi nao.

.

                     SAN TRUNG
      KÍ CHƯ ĐỆ MUỘI

    San trung đa pháp lữ
    Thiền tụng tự vi quần
    Thành quách dao tương vọng
    Duy ưng kiến bạch vân

 TRONG NÚI
GỬI CÁC EM TRAI,EM GÁI

Trong núi nhiều đạo hữu
Tự họp lại tụng kinh tham thiền
Xa trông về thành quách
Chỉ thấy toàn mây trắng.
*
Trên non đạo hữu người hiền
Cùng nhau tụ họp tham thiền tụng kinh.
Hướng về thành quách xa nhìn
Thấy toàn mây trắng lặng thinh một màu.

 


      SAN CƯ THU MINH

      Không san tân vũ hậu
    Thiên khí vãn lai thu
    Minh nguyệt tùng gian chiếu
    Thanh tuyền thạch thượng lưu
    Trúc huyên qui cán nữ
    Liên động hạ ngư chu
    Tuỳ ý xuân phương yết
   Vương tôn tự khả lưu

                       VƯƠNG DUY

Ở NÚI ĐÊM THU


Núi vắng sau mưa mới
Khí trời chiều đưa thu tới
Trăng sáng chiếu đám tùng
Suối trong chảy trên đá
Trúc lao xao cô gái giặt lụa về
Sen động đậy dưới thuyền câu
Mặc cho hương xuân hết
Vương tôn có thể tự mình ở lại
*
Núi yên vắng mới sau mưa
Khí trời chiều xuống như đưa thu về.
Hàng tùng trăng chiếu đê mê.
Suối trong trên đá tràn trề trôi xa.
Trúc reo người giặt lụa qua.
Hoa sen lay động chạm va thuyền chài.
Hương xuân mặc ý tàn phai
Vương tôn muốn ở lại đây tuỳ mình.

 

       THU DẠ ĐỘC TOẠ

         Độc toạ bi song mấn
       Không đường dục nhị canh
       Vũ trung san quả lạc
       Đăng hạ thảo trùng minh
       Bạch phát chung nan biến
       Hoàng kim bất khả thành
       Dục tri trừ lão bệnh
       Duy hữu học Vô sinh

                             VƯƠNG DUY

ĐÊM THU NGỒI MỘT MÌNH

 Ngồi một mình thương hai mấn tóc
Nhà vắng sắp canh hai
Trong mưa trái cây núi rụng
Dưới đèn sâu cỏ kêu
Tóc bạc cuối cùng khó biến đổi
Vàng ròng không thể luyện thành
Muốn biết cách trừ  bệnh già
Chỉ có học phép Vô sinh.

*
Một mình ngồi xót tóc mai.

Thềm hoang vắng giục canh hai qua dần.
Quả rừng mưa rụng bâng khuâng.
Dưới đèn sâu cỏ xa gần nỉ non.
Cuối cùng tóc bạc vẫn còn
Vàng ròng luyện tuổi vàng non không thành.
Bệnh già muốn biết trừ nhanh.
Vô sinh là phép học hành mà thôi.

 

                           TẢO THU
                         SAN TRUNG TÁC

  Vô tài bất cảm lụy minh thì
  Tư hướng Đông Khê thủ cố li
  Bất yếm Hướng Bình hôn giá tảo
  Khước hiềm Đào Lệnh khứ quan trì
  Thả đường cùng hưởng lâm thu cấp
  Sơn lí thiền thanh bạc mộ bi
 Tịch mịch sài môn nhân bất đáo
  Không lâm độc dữ bạch vân kỳ.

THƠ LÀM  LÚC CHỚM THU
Ở TRONG NÚI

Không tài đâu dám luỵ đến thời thịnh trị
Muốn về Đông Khê, bờ dậu cũ
Không ngại cảnh Hướng Bình cưới gả con sớm
Hiềm không như Đào Lệnh vì cáo quan trễ.
Nơi nhà cỏ, tiếng côn trùng vào thu kêu gấp
Trong núi, tiếng ve lúc chiều hôm nghe bi thương
Cửa bện cây vắng vẻ,không ai đến
Rừng vắng một mình hẹn cùng mây trắng.

*
Không tài đâu lụy thời bình
Đông Khê dậu cũ một mình muốn sang.
Hướng Bình cưới gả sớm bàn,
Không như Đào Lệnh, cáo quan chần chừ
Côn trùng nhà cỏ gọi thu,
Tiếng ve trong núi chiều ru muộn phiền.
Không ai đến, cổng lặng yên,
Hẹn cùng mây trắng một miền rừng hoang.

 

 

 

       DU LÝ SAN NHÂN
                      SỞ CƯ 

              nhân đề ốc bích
       Thế thượng giai như mộng
       Cuồng lai hoặc tự ca
       Vấn niên tùng thụ lão
       Hữu địa trúc lâm đa
       Dược thiến Hàn Khang mại
       Môn dung Hướng Tử qua
       Phiên hiềm chẩm tịch thượng
       Vô ná bạch vân hà.

                             VƯƠNG DUY

ĐẾN CHƠI NHÀ LÝ SƠN NHÂN

 Trên đời,mọi thứ như mộng
Phát cuồng hoặc hát nghêu ngao
Hỏi năm,gốc thông già kia
Có đất,rừng trúc nhiều thêm
Thuốc mượn Hàn Khang bán
Cổng nhường Hướng Tử qua
Chỉ hiềm trên gối chiếu
Chẳng biết làm sao trước mây trắng !

*
Trên đời mọi thứ như mơ

Phát cuồng hay tự dại khờ hát ca.
Hỏi năm, kìa gốc thông già
Đất thêm, rừng trúc rậm rà nhiều truông.
Thuốc, Hàn Khang giúp bán buôn
Cổng, nhường Hướng Tử rộng đường đi qua.
Chỉ hiềm chiếu gối lượt là,
Biết làm sao trước la đà trắng mây!


         LÂM ĐÌNH HỒ

     Khinh kha nghênh thượng khách
   Du du hồ thượng lai
   Đương hiên đối tôn tửu
   Tứ diện phù dung khai

                           VƯƠNG DUY

 ĐẾN HỒ ĐÌNH

 Thuyền mành nhẹ đón khách quí
Nhẹ nhàng lướt trên mặt hồ
Bên hiên trước bầu rượu
Bốn phía phù dung nở.

 *
Thuyền mành đón khách quí sang
Trên hồ nước lặng nhẹ nhàng lướt qua.
Trước bầu rượu dưới hiên nhà
Phù dung bốn phía nở hoa thơm lừng.

 

                 ĐỘ HÀ
   ĐÁO THANH HÀ TÁC

  Phiếm chu Đại Hà lí
  Tích thủy cùng thiên nha
  Thiên ba hốt khai sách
  Quận ấp thiên vạn gia 
  Hành phục kiến thành thị
  Uyển nhiên hữu tang ma
  Hồi chiêm cựu hương quốc
  Miểu mạn liên vân hà.

THƠ LÀM
KHI QUA SÔNG
ĐẾN THANH HÀ

Thả thuyền giữa Đại Hà
Nước tích tụ đến tận chân trời
Sóng to bổng nổi lên
Xóm làng có đến ngàn muôn nhà
Đi rồi mới thấy thành thị
Hẳn nhiên có cả dâu gai
Ngoảnh lại nhìn quê hương cũ
Mênh mông mây liền với ráng.

*
Thả thuyền trôi giữa Đại Hà
Nước sông tích tụ tận xa chân trời.
Sóng to chợt vỗ tơi bời.
Ngàn muôn nhà cửa khắp nơi xóm làng.
Thị thành lại thấy rộn ràng
Hẳn hoi có cả bạt ngàn dâu gai.
Ngoảnh nhìn quê cũ dặm dài.
Mênh mông ráng lẫn mây cài xa xôi .

 

                       Y HỒ

 吹簫        Xuy tiêu lâm cực phố
       Nhật mộ tống phù nhân
       Hồ thượng nhất hồi thủ
       San thanh quyển bạch vân

                               VƯƠNG DUY

 Y HỒ

 Thổi sáo,đến tận cuối bến sông
Chiều xuống tiễn chân bạn
Trên hồ,ngoảnh đầu lại
Núi xanh cuốn mây trắng

 *
Thổi tiêu đến tận bến xa

Tiễn đưa chân bạn chiều tà bâng khuâng.
Trên hồ ngoảnh lại bao lần
Chỉ còn mây trắng quyện tầng núi xanh.

.

                   CA HỒ

     Xuy tiêu lăng cực phố
   Nhật mộ tống phu quân
   Hồi thượng nhất hồi thủ
   San thanh quyển bạch vân.

                                   VƯƠNG DUY

 AO CA HỒ

Tiếng tiêu thổi lan tận bờ xa
Trời chiều đưa tiễn chồng
Trên hồ một lần ngoảnh lại
[chỉ] Màu xanh núi quyện mây trắng.

*
Tiếng tiêu lan tận bờ xa,
Mặt trời chiều lặn lúc ta tiễn chàng.
Trên hồ đầu ngoảnh trông sang
Chỉ màu xanh núi quyện làn trắng mây.

 

 

                MẠNH THÀNH AO

         Tân gia Mạnh Thành khẩu
       Cổ mộc dư suy liễu
       Lai giả phục vi thuỳ
       Không bi tích nhân hữu

                               VƯƠNG DUY

 MẠNH THÀNH AO

 Nhà mới ở cửa Mạnh Thành
Cây xưa còn nhánh liễu cắn
Người đến sau nữa là ai?
Thương cảm vu vơ cho những điều người trước đã

*
Về nhà mới ở Mạnh Thàmh
Cây xưa còn lại một nhành liễu phai.
Đến đây sau nữa là ai?
Vu vơ thương chuyện của người trước kia.

 

            TÂN DI Ổ

       Mộc mạt phù dung hoa
       San trung phát hồng ngạc
       Giản hộ tịch vô nhân
       Phân phân khai thả lạc

                            VƯƠNG DUY

 TÂN DI Ổ

 Nơi ngọn cây có hoa phù dung
Trong núi nẩy đài hống
Cửa khe vắng không người
Phân vân nở rồi rụng

 *
Hoa phù dung treo ngọn cây

Đài hồng trong núi nẩy đầy thắm tươi.
Đầu khe tĩnh mịch vắng người
Phân vân lại nở lại rơi muôn đời.

 

              LIÊN HOA Ổ

         Nhật nhật thái liên khứ
       Châu trường đa mộ qui
       Lộng cao mạc tiễn thuỷ
       Uý thấp hồng liên y

 王維                          VƯƠNG DUY

 LIÊN HOA Ổ

 Ngày ngày đi hái sen
Bãi dài chiều về muộn
Vung sào chớ toé nước
Sợ ướt áo sen hồng.

 *
Ngày ngày đi hái hoa sen
Bãi dài tít tắp muộn men chiều về.
Sào đừng toé nước đầm quê
Sợ làm ướt chiếc áo the sen hồng
.

.

          LOAN GIA LẠI

  Táp táp thu vũ trung
  Thiển thiển thạch lưu tả
  Khiêu ba tự tương tiễn
  Bạch lộ kinh phục há.

                         VƯƠNG DUY

VŨNG LOAN GIA

Rào rào trong mưa thu
Tràn tràn nước kẽ đá
Sóng tung toé lên nhau
Cò trắng sợ lại đáp xuống.
*
Rào rào trong tiếng thu mưa,
Len qua kẽ đá nước đưa tràn tràn.
Sóng chồm tung toé thênh thang
Con cò trắng sợ đáp càn xuống ao.

 

 

                  THANH KHÊ

    Ngôn nhập Hoàng Hoa xuyên
   Mỗi trục Thanh Khê thủy
   Tùy san tương vạn chuyển
   Chiếp đồ vô bách lí
   Thanh huyên loạn thạch trung
   Sắc tĩnh thâm tùng lí
   Dạng dạng phiếm lăng hạnh
   Trừng trừng ánh hà vi
   Ngã tâm tố dĩ nhàn
   Thanh xuyên đạm như thử
   Thỉnh lưu bàn thạch thượng
   Thùy điếu tương dĩ hỹ

THANH KHÊ[KHE XANH]

Nói rằng vào sông Hoàng Hoa
Mỗi lần theo dòng Thanh Khê
Nương theo vạn thế núi
Qua con đường chưa tới trăm dặm
Tiếng ồn loạn xạ trong đá
Màu lặng tĩnh nơi ngàn thông thâm u
Bềnh bống nổi cánh súng
Mênh mang soi bóng tàn sen khóm lau
Lòng ta vốn thanh nhàn
Sông trong bình đạm cũng như thế
Xin lưu lại trên bàn đá
Chỗ ngồi buông câu trước sau vậy.
*
Muốn vào sông nước Hoàng Hoa
Thanh Khê mỗi bận lần ra lối mòn.
Nương theo vạn thế núi non
Nước qua trăm dặm lách lòn trôi mau.
Tiếng vang trong đá rì rào
Thâm u tĩnh lặng một màu dưới thong.
Mặt khe bông súng bềnh bồng
Sen hồng lau trắng soi dòng mênh mang.
Lòng ta vốn dĩ thanh nhàn,
Sông trong bình đạm cũng nhàn nhã thôi.
Xin trên bàn đá một thời,
Trước sau “lưu” lại chỗ ngồi buông câu.

 

        BA NAM CHU TRUNG
                       THƯ SỰ

         Độ khẩu dục hoàng hôn
       Qui nhân tranh độ huyên
       Cận chung thanh dã tự
       Viễn hoả chiếu giang thôn
       Kiến nhạn tư hương tín
       Văn viên tích lệ ngân
       Cô chu vạn lý dạ
       Thu nguyệt bất kham luân

                             VƯƠNG DUY

VIẾT TRONG THUYỀN ĐI BA NAM

Bến đò sắp hoàng hôn
Người về tranh đò ồn ào
Tiếng chuông gần chùa quê
Ánh lửa xa chiếu xóm bên sông
Thấy nhạn bay nhớ tin làng cũ
Nghe vượn kêu chứa chan ngấn lệ
Thuyền lẻ loi trong đêm muôn dặm
Trăng thu thật khó tả
*
Bến đò vừa chớm hoàng hôn
Ồn ào tranh chuyến đò thôn người về.
Gần đâu chuông vọng chùa quê
Xóm bên sông ánh lập loè lửa xa.
Nhạn qua mong nhớ tin nhà
Nghe buồn tiếng vượn lệ nhoà chứa chan.
Thuyền đơn muôn dặm đêm sang
Trăng thu sao thấu nỗi bàng hoàng riêng.



                       VỊ THÀNH KHÚC

    Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần
    Khách xá thanh thanh liễu sắc tân
    Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
西     Tây xuất Dương Quan vô cố nhân

                                Vương Duy

KHÚC VỊ THÀNH

Ở Vị Thành ,mưa buổi sáng làm ướt lớp bụi nhẹ.
Bên quán khách ,sắc liễu mới xanh xanh.
Mong bạn hãy cạn một chén rượu
(vì) đi ra phía tây Dương Quan sẽ không có người xưa  

*
Vị Thành ướt bụi mưa mai

Hàng cây liễu mới quán ngoài xanh xanh.
Cạn đi chén rượu mời anh
Không người xưa phía tây thành Dương Quan .

  .

       QUI VÕNG XUYÊN TÁC

         Cốc khẩu sơ chung động
       Ngư tiều sảo dục hi
       Du nhiên viễn san mộ
       Độc hướng bạch vân qui
       Lăng mạn nhược nan định
       Dương hoa khinh dị phi
       Đông cao xuân thảo sắc
       Trù trướng yểm sài phi

                             VƯƠNG DUY

VỀ VÕNG XUYÊN CẢM TÁC

Cửa hang văng vẳng tiếng chuông
Ngư phủ,tiều phu muốn thưa dần
Bang khuâng núi xa khi chiều xuống
Một mình đi về hướng mây trắng
Cọng súng mềm khó đứng yên
Hoa dương nhẹ dễ bay
Cánh đồng phía đông cỏ đượm sắc xuân
Bùi ngùi khép cánh cổng cây.
*
Cửa hang nghe vẳng hồi chuông

Tiều phu ngư phủ ngoài truông thưa dần.
Núi xa chiều xuống bâng khuâng
Theo đường mây trắng một thân lui về.
Đong đưa cọng súng đồng quê
Hoa dương liễu nhẹ dễ bề tung bay.
Đồng đông sắc cỏ xuân đầy
Buồn buồn khép cánh cổng cây lặng thầm.

.

     VỊ XUYÊN ĐIỀN GIA

  Tà quang chiếu khư lạc
   Cùng hạng ngưu dương qui
   Dã lão niệm mục đồng
      Ỷ trượng hậu sài phi
   Trĩ củ mạch miêu tú
  Tàm miên tang diệp hi
  Điền phu hà xừ lập
  Tương kiến ngữ y y
  Tức thử tiện nhàn dật
  Trướng nhiên ca Thức Vi

NHÀ VƯỜN
Ở VI XUYÊN

 Nắng chiều nghiêng xuống xóm làng
Ngõ sâu,trâu dê về
Ông già quê nghĩ thương trẻ chăn trâu
Chống gậy chờ nơi cổng tre
Chim trĩ kêu cây lúa mạch trổ đòng
Tầm ngủ lá dâu ít
Nông dân vác cuốc đứng trông
Gặp nhau nói chuyện bao đồng
Trước cảnh này mong được sống thanh nhàn
Bùi ngùi ca khúc Thức Vi.

 *
Chiều nghiêng bóng xuống thôn quê
Trâu dê lũ lượt trở về ngõ sâu.
Lão quê thương trẻ chăn trâu
Gậy tre chống đợi nơi đầu cổng cây.
Trĩ kêu lúa trổ đòng đầy
Lá dâu còn ít ngủ say con tằm.
Nhà nông vác cuốc đi thăm
Gặp nhau nói chuyện trăm năm mùa màng.
Trước đời mong được thanh nhàn
Bùi ngùi ngâm khúc ca tràn Thức Vi.

.

            VÕNG XUYÊN BIỆT NGHIỆP

  Bất đáo Đông San hướng nhất niên
  Qui lai tài cập chủng xuân điền 
  Vũ trung thảo sắc lục kham nhiễm
 Thuỷ thượng đào hoa hồng dục nhiên
  Ưu Lâu tỉ khưu kinh luận học
  Ủ Lũ trượng nhân hương lí hiền
  Phi y đảo tỷ thả tương kiến
  Tương hoan ngữ tiếu hành môn tiền

BIỆT THỰ Ở VÕNG XUYÊN

Chưa trở lại Đông Sơn gần một năm
[Nay] về vừa kịp cấy ruộng mùa xuân
Trong mưa, sắc cỏ xanh như nhuộm
Trên dòng nước, hoa đào rực hồng như muốn cháy.
Tỳ khưu Ưu Lâu học kinh luận,
Cụ già Ủ Lũ như người hiền trong xóm làng.
Khoác áo xỏ dép đi gặp nhau
Cùng vui vẻ nói cười ngoài cổng sơ sài.
*
Gần năm chưa đến Đông Sơn
Nay về kịp cấy vụ xuân ruộng nhà.
Trong mưa sắc cỏ thắm pha,
Bên dòng muốn cháy đào hoa rực hồng.
Ưu Lâu kinh luận học thông
Người hiền Ủ Lũ già trong xóm làng.
Xỏ giày khoác áo tìm sang,
Cùng nhau đàm đạo cười vang cổng nghèo.

.

                          TÍCH VŨ
            VÕNG XUYÊN TRANG TÁC

    Tích vũ không lâm yên hoả trì
  Chưng lê xuy thử hướng đông truy
  Mạc mạc thủy điền phi bạch lộ
  Âm âm hạ mộc chuyển hoàng ly
槿  San trung tập tĩnh quan triêu cận
  Tùng hạ thanh trai chiết lộ quì
  Dã lão dữ nhân tranh tịch bãi
  Hải âu hà sự cánh tương nghi

                                       Vương Duy

LÚC MƯA CHIÊU
Ở TRẠI VÕNG XUYÊN  LÀM THƠ

Mưa chiều rừng vắng  khói bếp chậm toả
Canh lê cơm nếp đưa sang cáng đồng phía đông
Ruộng nước bao la cò trắng bay
Cây hạ râm bóng hoàng ly hót
Trong núi tĩnh tâm nhìn cây dâm bụt buổi sáng
Dưới thông chay tịnh hái nhành quì sương đọng
Lão quê này đã thôi giành chỗ với người
Âu biển cớ sao vẫn còn nghi ngờ.

*
Rừng mưa khói toả muộn màng
Canh lê cơm nếp đưa sang đông đồng.
Trắng cò ruộng nước mênh mông
Quanh cây hạ rậm trẻo trong oanh vàng.
Lặng nhìn cây sớm trên ngàn
Dưới thông chay tịnh chạm làn quì sương.
Lão quê nơi ấy đã nhường
Cớ sao âu biển vẫn thường hồ nghi .

.

                     XUÂN TRUNG
             ĐIỀN VIÊN TÁC

     Ốc thượng xuân cưu minh
   Thôn biên hạnh hoa bạch
   Trì phủ phạt viễn dương
   Hà sừ chiêm tuyền mạch
    Qui yến thức cố sào
   Cựu nhân khán tân lịch
   Lâm thương hốt bất hàm
   Trù trướng viễn hành khách

THÁNG HAI
Ở RUỘNG VƯỜN CẢM TÁC

 Trên nốc nhà tu hú gọi xuân
Ven thôn hoa hạnh nở trắng
Cầm rìu đốn cành cây vươn xa
Vác cuốc tìm mạch suối
Chim ém trở về nhận ra tổ cũ
Người xưa xem lịch mới
Đến bên chén rượu chợt ngừng không nhắp
Bùi ngùi nhớ khách đi xa.
*
Nóc nhà tu hú gọi xuân
Trắng tinh hoa hạnh nở dần ven thôn.
Đưa rìu đốn nhánh cây vươn,
Cuốc chiêm đào kiếm mạch nguồn suối sâu.
Én về  biết tổ cũ lâu
Người xưa xem tấm lịch đầu mới ra.
Chợt ngừng nhắp chén hoàng hoa
Bùi ngùi nhớ khách đi xa bao ngày.

.

                       LAM ĐIỀN
SAN THẠCH MÔN TỈNH XÁ


    Lạc nhật san thủy hảo
    Dạng chu tín qui phong
    Ngoạn kỳ bất giác viễn
    Nhân dĩ duyên khê cùng
   Dao ái vân mộc tú
   Sơ nghi lộ bất đồng
   An tri thanh lưu chuyển
   Ngẫu dữ tiền san thông
   Xả chu lí khinh sách
   Quả nhiên thiệp sở thích

   Lão tăng tứ ngũ nhân
   Tiêu dao ấm tùng bách
   Triêu phạn lâm vị thự
   Dạ thiền san cánh tịch
   Đạo tâm cập mục đồng
   Thế sự vấn tiều khách
宿    Minh túc trường lâm hạ
   Phần hương ngoạ dao tịch
   Giản phương tập nhân y
   San nguyệt ánh thạch bích
   Tái tầm úy mê lộ
   Minh phát cánh đang lịch
   Tiếu tạ Đào Nguyên nhân
覿   Hoa hồng phục lai địch.

TỊNH XÁ SƠN THẠCH MÔN
Ở LAM ĐIỀN

Ngày tàn, cảnh núi sông đẹp,
Thả thuyền theo gió về.
Ngắm cảnh kỳ diệu,không nhận ra còn xa
Nhân đó, tìm đến đầu nguồn khe suối.
Xa xôi thương mây và cây đẹp.
Mới đầu, ngờ không chung đường,
Sau yên trí suối trong đã chuyển hướng.
Bất ngờ cùng thông với núi phía trước.
Bỏ thuyền dùng gậy nhẹ,
Quả nhiên rất thích hợp

Sư già, bốn năm người,
Dạo chơi dưới bóng tùng bách.
Tụng kinh sớm khi rừng chưa sáng
Ngồi thiền chiều núi càng tịch mịch.
Lòng đạo làm say lũ mục đồng,
Chuyện đời, hỏi người hái củi.
Ngủ say trong rừng rậm,
Thắp nhang nằm chiếu quí đẹp.
Mùi thơm khe nước thấm áo người.
Trăng núi soi vách đá.
[nếu] Tìm nữa, sợ lầm đường.
Sớm mai còn ra đi.
Cười tạ từ người Đào Nguyên
[hẹn cùng] Hoa hồng lại đến thăm.

*
Ngày tàn sông núi đẹp thêm,
Thả thuyền theo gió êm đềm về xuôi.
Diệu kỳ,quên lối xa xôi,
Tiện đây tìm đến nguồn đồi khe xa.
Dõi thương cây đẹp mây nhoà,
Thoạt đầu ngỡ chẳng cùng qua một dòng.
Đâu hay chuyển hướng suối trong,
Bất ngờ núi trước lại thông lối đàng
Bỏ thuyền dùng gây nhẹ nhàng
Quả nhiên sở thích lại càng hợp thôi.

Sư già, gặp bốn năm người,
Dưới ngàn tùng bách vui cười dạo chơi.
Tụng kinh rừng sớm sáng trời,
Ngồi thiền chiều xuống núi đồi vắng không.
Đạo tâm say lũ mục đồng,
Chuyện đời hỏi khách tiều trong chiều tà.
Ngủ khì giữa cánh rừng già,
Thắp nhang nằm chiếu quí và đẹp tươi.
Hoa khe thơm thấm áo người,
Trăng ngàn bên vách đá vời vợi soi.
Tìm thêm sợ lạc đường đời,
Còn ra đi nữa bên trời sáng mai.
Đào Nguyên lại tạ từ ai,
Hoa hồng như hẹn tái lai một ngày.

 

            ĐIÊN VIÊN LẠC
[其一]                                         [kỳ nhất]

    Thái lăng độ đầu phong cấp
西   Sách trượng thôn tây nhật tà
  Hạnh thụ đàn biên ngư phủ
  Đào Hoa Nguyên lý nhân gia

                               VƯƠNG DUY

 THÚ VUI RUỘNG VƯỜN
[bài 1]

Hái sen [về] bến đò gió thổi gấp
Chống gậy đến thôn tây lúc chiều tà
Bên đàn cây hạnh [có]ông già đánh cá
Trong Nguồn Hoa Đào có nhà dân
.
*
Gió đưa đò hái sen quê
Chiều tà người chống gậy về thôn tây.
Đàn cây hạnh bóng ông chài
Nguốn Đào thấp thoáng một vài nhà dân.

.

                ĐIỀN VIÊN LẠC
[其二]                                        [kỳ nhị]

  Thê thê phương thảo xuân lục
  Lạc lạc trường tùng hạ hàn
  Ngưu dương tự qui thôn hạng
  Đồng trĩ bất thức y quan

                               VƯƠNG DUY

 THÚ VUI RUỘNG VƯỜN
[bài 2]

Mơn mởn cỏ thơm xanh màu xuân
Rủ rủ  tùng cao vương lạnh trời hạ
Trâu dê tự về ngõ thôn
Trẻ đồng quê chẳng biết về chuyện áo mão.
*
Cỏ thơm mơn mởn xuân xanh.

Tùng cao rủ rủ lạnh tanh hè về.
Trâu dê tự biết đường quê.
Trẻ đâu hay chuyện áo the mũ chuồn.

.

               ĐIỀN VIÊN LẠC
  [其三]                                    [kỳ tam]

  San hạ cô yên viễn thôn
  Thiên biên độc thụ cao nguyên
  Nhất biều Nhan Hồi lậu hạng
  Ngũ liễu Tiên Sinh đối môn

                             VƯƠNG DUY

 THÚ VUI RUỘNG VƯỜN
 [bài 3]

Dưới núi sợi khói lẻ loi nơi thôn xa
Bên trời trơ trọi một than cây trên nương cao
Một tùi Nhan Hối trong hẻm nghèo
Năm liễu Tiên Sinh ở trước cửa.

 *
Thôn xa dưới núi khói lay

Nương cao trơ trọi thân cây bên trời.
Hẻm nghèo một túi Nhan Hồi
Trước nhà Năm liễu biếc thời Tiên Sinh.

 

 

                       ĐIỀN VIÊN LẠC
[其五]                                               [kỳ ngũ]

    Chước tửu hội lâm tuyền thủy
    Bão cầm hảo ỷ trường tùng
   Nam viên lộ quì triêu chiết
   Đông cốc hoàng lương dạ xuân

                               VƯƠNG DUY

 THÚ VUI RUỘNG VƯỜN
[bài 5]

 Rót rượu cùng đến bên dòng suối
Ôm đàn thích tựa thông cao
Vườn nam hái đoá quì sương sớm
Hang đông ngon giấc đêm xuân

 *
Rượu mời cùng đến suối trong

Ôm đàn thích tựa gốc thông cao già.
Vườn nam sớm hái quì hoa
Hang đông say giấc mộng ngà đêm xuân.