mái xưa

MÁI XƯA


.

 

LIỄU XƯA

Vẫn nghe tiếng biển rì rào
đưa con sóng biếc chạy vào bờ xa.
Liễu xưa mẹ hát la đà
ru tôi vào giấc ngủ hoa yên lành.

Vẫn nghe từ khoảng trời xanh,
vi vu diều sáo thuở thanh bình nào.
Tuổi thơ hồn thả bay cao.
Lời đồng dao cũ nghêu ngao trên đồi.

Vẫn nghe dòng suối bồi hồi
như tình em đó một đời tôi yêu.
Khúc dân ca lắng trong chiều.
Suối ơi, suối chảy bao nhiêu bến bờ.
Một lần cho tôi ước mơ.

Một lần cho tôi vần thơ.
Thơ ơi, vàng bướm bao giờ Mái Xưa.

      LA GI,1969
        CÁT SỸ

 

TIẾNG SÓNG

       Năm tháng trôi đi, có những điều tưởng chừng mất hút theo thời gian  chìm vào quên lãng. Thật ra, tất cả  vẫn còn lẩn quất trong cõi người. Hương hoa tưởng như mất đi khi sắc hoa tàn úa, nhưng hương mùa vẫn đọng mãi theo thời gian vô cùng, giữa không gian tĩnh lặng.

       Một ngày cùng Thoa về lại quê nhà, tôi nghe tiếng sóng từ bờ dịu êm như khúc nhạc chiều.Tiếng sóng xa khơi trôi mãi lại gần vỗ nhẹ nơi bờ nước tan loãng vào không gian tĩnh mịch. Phút tịnh yên như khoảng lặng Schubert theo gió chuyển dần vào sâu thẳm  Cứ như thế hết đợt này sang đợt khác rì rào xa xôi. Ngày nào xa quê, tôi không sao ngủ được vì con sóng ngoài khơi ấy. Nay về dưới mái xưa, tôi lại thức với những đêm dài.

       Mẹ đã về bên kia núi, khuất nơi chân trời. Đêm nay tôi ngỡ như gặp lại mẹ già giữa mùa bấc thổi.  Mẹ ngồi gù lưng đào từng con chang chép, tóc trắng bay xòa trong gió. Biển chiều thẳm một màu tím. Bóng mẹ mờ dần vào đêm và tôi chờ vầng trăng lên. Những cây rau sâm biển, gốc trắng nõn lá xanh bông vàng dịu, thơm mùi cát mặn. Tô canh bồ ngót, với chần chần giã nhỏ, ngọt ngào suốt một tuổi thơ.                            

          Tiếng sóng rì rào xa xôi làm nhớ tiếng tiêu buồn của Phan. Phan bây giờ ở đâu ? Thúy bây giờ về  đâu ?  Đâu rồi một căn gác gỗ, những bậc cầu thang, thềm rêu mái cũ. Đâu bóng người lầm lũi trên đường mưa chiều nơi một ga nhỏ? Có thể giờ này mỗi người một phương nhưng mối tình của thời cắp sách ấy còn ai nhớ ai quên? Tiếng sóng vỗ từ bờ dương liễu xa hay tiếng tiêu buồn lắng trong chiều vàng mùa cũ?

          Tôi như gặp lại mình rong chơi trên đồi cỏ cú giữa khu rừng vắng, khờ khạo tìm đóa hoa lạ cài lên mái tóc em, người em gái còn ngủ say trong rừng mơ. Bao chiều thả trâu qua đồng sau mùa gặt, ngậm một gốc cỏ cú nghe hương nồng trong mũi mà hồn như trôi theo áng mây cuối trời. Những con trâu ngày nào thả láng thả bưng đã già nua đã thành tro bụi nhưng hình ảnh bạn xưa vẫn như còn đùa nghịch trong trí nhớ. Những trận bóng quyết liệt tại một thửa  ruộng vừa gặt xong còn nồng mùi rạ ướt. Những buổi đá bò, u mọi, đánh trỏng thả diều, những buổi lang thang trong rừng hái nổ hái sim. Hắt hiu một trưa hè. Vi vu một bờ dương liễu. Dìu dặt một đêm mưa.        .               
       
          Con sóng xa lắc từ ngàn đời vỗ mãi vào bờ tâm hồn rì rào xa xôi.

           La Gi,1969.                               .
          CÁT SỸ

.


MẸ
TRẦN THỊ VUI
ĐoànThuận chạm từ rễ săn đá.

 

MẸ

Mẹ, một thời trẻ đẹp hái dâu bên bờ sông,
nơi những chàng trai hát tình ca khi chiều xuống.
dòng sông chảy xanh ngàn dâu.
lá dâu biếc nên áo tơ vàng.

Người đặt hom dâu đầu tiên lên đất cũ
nhặt hết màu hoa trên tóc Mẹ
áo chàm phai nơi nao trong cõi đời.

Chiều men theo dòng sông
nhớ một lần Mẹ khóc.

         Saigon,1964
         CÁT SỸ

 

NHÀ MẸ XƯA

Ngôi nhà mẹ.
Ánh lửa bếp chiều ấm ký ức hoang vu.
Ngói âm dương vỡ tan những mảnh vụn kỷ niệm.
Âm thanh ngói rơi xuống tuổi thơ lời ru xưa.
Tan loãng mông lung buồn mây mưa.

Tiếng ngói đổ chạm đáy hồn người tha phương.
Giọt trầu đỏ quệt ngang thềm phố cổ mùa đông.
Vách lam ngả bóng hoang sơ vào kẻ nứt ngày tháng.
Dội lên màu khóí lửa nhức nhối tâm tư cô đơn.

Nỗi quê gối đầu lên rêu xanh sân gạch.
Cành điệp vàng quét bụi khói nhang bàn thiên.
Mẹ móm mém tạ ơn đất trời đứa con lưu lạc.
Chiều lại buồn nước mắt tiễn chân con.

Rồi ta về một mai lạ lẫm những lối mòn.
Rồi ta về một mai đâu ai quen.

 

NHÀ CŨ NGÀY TẢN CƯ

Nhà sàn đơn sơ trong rừng xanh.
Hai gian cành nôm nơi đầu gành.
Vách tre dừng lá, cửa song trúc
Tản cư tạm trú thời chiến tranh.

Lương khô trời cho kho không lưng.
Khoai mài, linh chi, nần, sâm nhung.
Lúa rài Ba Trăng, bột săn tế.
Cá đồng, thịt thú, mật ong rừng.

Hương hoa màu cây thay quanh mùa
Muồng vàng, mây bưng, bông lau thưa.
Nấm dại, rêu hoang, suối trong mát.
Phong lan thơm thoảng theo gió lùa.

Ngày vang lời chim muôn âm thanh.
Đêm ru hương pha sương long lanh.
Người xa quê cũ chốn rừng thẳm
Thầm lặng ước mong đời yên lành.

 

MÁI XƯA

Từ biệt mái nhà xưa
nghe lòng ta rơi mưa
khi xa kỷ niệm đầu đời
xa những ngày yên tĩnh
những ước mơ không lời.

Đâu những buổi chiều lặng
ánh nắng vàng bên kia song cửa
gió đưa hương hoa nhẹ vào cây
một bóng mây trên cao khung trời
đâu những đêm trăng vừa lên
mộng mơ tan vào ánh bạc
ruộng đồng khuya yên ắng không gian.

Ôi ngôi nhà của Mẹ ta xưa
mái lá đơn sơ nhưng ấm tình non nước
ra đi rồi ai hiểu được lòng ta
ai sẽ cho ta những ngày yên gió.

Tân Lý, 1960

 

 

TIẾNG VÕNG CHIỀU

Mẹ ngồi đưa tiếng võng chiều.
Ru Cha nơi chốn tịch liêu không về.
Hoa cau rụng trắng đường quê.
Dấu giày cỏ lấp bốn bề lặng yên.

Mẹ ngồi ru bóng trăng nghiêng.
Gió đưa mây khuất qua miền núi non.
Từng mùa cây sứ hoa thơm.
Từng mùa mong ngóng đứa con xa mờ.

Một mình, Mẹ vẫn ầu ơ.
Lời ru lẫn giữa sương mờ tịch liêu.
Lời ru ru lạnh bóng chiều.
Mấy hàng lau trắng chợt hiu hắt buồn.

Tháp cao vừa rụng tiếng chuông.
Con sông xa lắc rời nguồn về xuôi.
Lời ru ru đến ngậm ngùi.
Tưởng hồn cát bụi ngủ vùi trăm năm.

Mit mùng rừng núi xa xăm.
Tiếng hoa buồn rụng lặng câm phố dài .

Tân Thắng, 1997

 

DÁNG MẸ XƯA

Mẹ đi dò dẫm liêu xiêu.
Khua cong bóng gậy tre khều vào xưa.
Lưng trời có tiếng rơi mưa.
Lời ca mòn mỏi liếp thưa hao gầy.

Ánh trăng rơi xuống từ cây.
Hương cau vắng Mẹ như lay lắt buồn.

 


TỰA CỬA

Mẹ, tóc như tơ trắng
dưới áng mây chiều bay,
bao lần buồn tựa cửa,
lưng còng theo tháng ngày.

Tuổi trời gần bóng núi,
nguời thân ngày xa dần,
đường qua làng trăng sáng,
lòng con lại bâng khuâng.

Mẹ thẳm xa dặm quê
xuân thu đi không về.
Con bên này tiếng sóng
nghe đời vỗ đêm mê.

 

Ở XÓM RẪY

Một vùng Xóm Rẫy, Hoà Minh,
tháng mười một, nắng lung linh sông Kiều.
Nắng hoa làm nhớ bao điều.
Buồn vui bên mẹ những chiều tuổi xanh.

Liệt lợ thêm chút ớt hành.
Tô canh phơn phớt ngon lành, Mẹ ơi.
Nắng mưa dầu dãi một đời.
Xa xưa nhịp võng à ơi ru buồn.

Dù nghèo cũng thể quê hương.
Vàng son cũng chỉ một phương đất người.
Tháng ngày cứ mải miết trôi.
Ầu ơ, tiếng Mẹ ru đời quanh hiu.

 

MỘT KHU VƯỜN

Mẹ để lại cho ta khu vuờn
cùng kỷ niệm bên trời quê hương
từ giọt mồ hôi và nước mắt
ngó sen ẩn hiện nỗi vui buồn.

Mẹ xa xôi khu vườn hoang lạnh,
cây nguyệt quế an nhiên giữa đời,
khép nép hoa những chiều muộn,
dịu dàng hương mỗi sớm mai.

Trước hoa,
ta chợt đơn côi,
suốt một đời xa Mẹ.

Giữa vô biên,
hương trầm tích
không lời.

.


 

NHỚ LẠI TUỔI THƠ

Đôi khi ngồi nhớ lại đời.
Thấy ta côi cút một thời trẻ con.
Bấm chân bùn vượt lên non.
Cha vào thiên cổ. Mẹ mòn mỏi xa..

Dưới trăng đâu tỏ màu hoa.
Ôm bao mộng ước ta qua đồng chiều.
Tưởng đời như một cánh diều.
Vi vu bay giữa bao nhiêu mây trời.

Ấu thơ ơi, thuở đầu đời.
Một ly rượu ngọt ta mời mọc ta.
Từng ngày ga xép tàu qua.
Từng trang sách mở, dần xa tuổi mình.

 

 

 

MỘT THOÁNG TUỔI THƠ

Ta giấu điều nhớ quên vào góc khuất muộn phiền,
lần bước đi tìm lời ru nôi thần tiên.
Ai huyễn hoặc người đời như nhân vật cổ tích,
hát dạo bên sông, ngồi câu bóng mây bồng bềnh.

Ta vắt kiệt tuổi thơ khờ khạo kiếm sống,
đánh đổi từng giọt mồ hôi nuôi nấng ước mơ,
cạn khô nước mắt bao đêm thầm nhớ Mẹ,
quay quắt qua ngày lủi thủi trên dặm đường xa.

Đôi khi co ro sân ga đêm, thẫn thờ bến đò muộn.
Dù chẳng có ai để chia tay, để mong chờ.
Đường ray sắt vào âm u, còi tàu nghe xa hút.
Tiếng gọi đò từ muôn xưa vang vọng mơ hồ.

Hơn một lần ta đứng trước loài hoa trắng,
đâu dám mong hoa nở vì ta,
nhưng hồn nhiên hương lắng hồn ngây dại,
vào nỗi cô đơn qua suốt mùa đi.

 

TUỔI DẠI KHỜ

Thuở ấy vì đời ta mộng mơ,
vì yêu hoa hồn bỗng dại khờ,
mơ mùa xuân thắm đời tươi thắm,
bên Mẹ vui cùng sách và thơ.

Mùa học đầu tiên rồi đi qua.
Con tàu xuôi, ga thôn thẩn thờ.
Mình ta đối mặt đời trong đục,
đêm về lo sợ đầy trong mơ.

Bình thản sân trường áo trắng bay.
Riêng ta gió bụi trên vai đầy.
Mẹ nghèo dưới mái lều mưa nắng.
Sách vở một ngày như khói mây.

Đời lắm ưu phiền ta vẫn mơ,
vẫn nguyên mộng ước buổi dại khờ,
vẫn mong trở lại miền phượng cũ,
sống lại một ngày tuổi ấu thơ.

 

XA XỨ.

Xa xứ nhiều đêm nhớ bạn bè.
Mình ta cốc rượu sầu lê thê.
Mưa dầm sông vắng đôi bờ lạnh.
Xóm cũ đường quê ai đợi về.

Bởi phố quen xưa đã xa vời.
Những ngườì bạn cũ đi muôn nơi.
Ta thèm một lúc bên quán vắng.
Cùng ai lặng nhìn mưa đêm rơi.

 

TÂN LÝ ƠI.

Tôi ngụ phương người
Tân Lý ơi.
mơ về quê Mẹ
lòng bồi hồi.
bao mùa bấc lộng
đồng mông quạnh
gió lạnh ngàn khơi
sóng chơi vơi.

Xứ lạ mình tôi
Tân Lý ơi,
ngày thơ ấu đó nhắc tên người.
bụi đường sương gió
còn rong ruổi
buồn nhớ không nguôi
Tân Lý ơi.

Cái Bè, 1958

 

XA MẸ

Tuổi đời sớm đã quạnh hiu.
Một ta, du tử, bao chiều lang thang.

Cồn xa với bến sông vàng.
Mùa trôi con nước nặng ngàn nỗi đau.
Mây giăng một cõi xa nào.
Đồi hoang cỏ cháy vườn đào vắng không.

Chim bay về cuối trời đông.
Lời ca dao cũ ru trong điệu buồn.
Qua cầu nhớ buổi quê hương.
Mẹ già tóc trắng gió sương dãi dầu.

 

HẠT MÙA

Mẹ đi để lại hạt mùa.
Nương rau bóng áo nâu xưa một thời.
Quê nghèo bông lúa vàng ơi.
Đất đai thấm giọt mồ hôi bao điều.

Mẹ đi xuân sớm thu chiều.
Sương mù phố núi quạnh hiu lối bờ.
Con về tìm lại vần thơ.
Tự ru vào giấc mai chờ ngày lên.

 

MỘT DU TỬ.

Bao mùa ở trọ đó đây.
Phò Trì Xóm Rẫy những ngày bé thơ.
Nghe chim xanh hót trăng mờ.
Nhìn đồi hoa dại, thầm mơ trái rừng.

Giã tử Động Chú miền bưng.
Leo quanh Núi Nhọn, vượt từng Suối Sâu.
Tìm qua Bến Lội Bình Châu.
Trường làng tiểu học tập câu vỡ lòng.

Đi lên Bà Rịa phố đông.
Bơ vơ khờ dại giữa dòng gió sương.
Thầy cô bạn học sân trường
giúp tôi tiếp cận văn chương tú tài.

Sài Gòn tiếp bước tương lai.
Văn Khoa Sư Phạm luyện tài dưỡng tâm.
Dạy tư kèm trẻ nhiều năm.
Tập tành nghiên bút phương châm Thầy Đồ.

Ra trường về xứ Đông Hồ,
Mê âm vọng cổ bên bờ Thuận Yên.
Nơi trường trung học Hà Tiên,
đọc Chiêu Anh Các, ngẫm huyền thoại xưa.

Ba năm dưới bóng nắng mưa
được thay nhiệm sở dù chưa đến kỳ.
Hồi hương đất mẹ La Gi.
Sau lưng bỏ lại thời ly biệt buồn.

Lang thang bên suối cội nguồn.
Cùng hương đồng nội, với luồng gió thu.
Xa rồi đất trọ bụi mù.
Nhớ câu lục bát Mẹ ru thuở nào.

La Gi, 1972

LƠ NGƠ.

Cùng người nhịp bước đường đời.
Quanh co heo hút dưới trời gió sương.
Bên nhau lắng tiếng mưa nguồn.
Rơi trên rừng lá âm buồn mong manh.

Đôi khi lưu lạc độc hành.
Hành trang  lưu bút ngày xanh hạ tàn.
Biệt ly xóm mạc đồng hoang.
Dặm dài cát bụi ẩn tàng nỗi đau.

Bâng khuâng dừng lại bên cầu.
Đò ngang khuất bóng, sông sâu xuôi dòng.
Cánh bèo trôi dạt long đong.
Lục bình lờ lững, rêu rong vật vờ.

Một tôi phận mỏng lơ ngơ.
Mong tìm an tịnh bên bờ điêu linh

 

PHẬN TÔI

Xa quê xa Mẹ
thuở nhi đồng.

Theo đạo Ông Bà
dòng Lạc Hồng.

Tha phương đi học
ra đi dạy.

Tự dưỡng tâm an
trước bão giông.

Bà Rịa,1960

 

CÓ LẼ NHƯ THẾ

Có lẽ phận đời ta phải như thế.
Vừa lọt lòng Mẹ, đã xa Mẹ, lưu lạc bên trời.
Chiến tranh đi qua bể dâu đời ly tán.
Cha muộn phiền khuất núi về xa xôi.

Ngày ấu thơ trôi theo những cánh rừng.
Lá thu rụng vàng phía sau lưng.
Ta đâu dám ngoái nhìn đôi xóm mạc.
Đâu thể quên cuộc chia tay nơi miền bưng.

Lủi thủi qua ngang nhà ai bến lau thưa.
Lời đồng dao miên man miền núi xưa.
Mái cành nôm đong đưa ru nhịp võng.
Lòng ta buồn nhìn tím sắc hoa mua.

Chưa kịp về tạ ơn khi ngoại đau.
Lại giã từ quê hương, thương mẹ bạc mái đầu.
Đường đời mải miết  bao bờ bến.
Những dòng sông, con phố, chuyến tàu.

Ta thầm biết có người tội nghiệp ta.
Cũng tự nhận ra hương phai theo mùa hoa.
Dù chỉ dám mơ một nụ cười thánh thiện.
Khi nhìn mây trôi lờ lững chân trời xa.

Có lẽ nào phiêu bạt suốt trăm năm.
Có lẽ nào trời quên cho một chỗ nằm.
Ta về phủi bụi trang thư cũ.
Tìm đọc lời em trong lặng thầm.

  Sài Gòn, 1965

.
 


TN
Cát Sỹ ký họa 1971

 

NỖI QUÊ

Nửa đời bỏ ruộng đi theo sách
Nhớ điếng lòng quê dáng Mẹ gầy
Tô canh bồ ngót cơm lúa mới
Khói bếp đêm hè vương mắt cay.

 

 

DU TỮ và CỎ HOA.

Du tử bé con rời quê nhà,
ngu ngơ thơ thẩn dặm đường xa,
lần bước làm quen cùng con chữ,
buồn vui lặng lẽ với cỏ hoa.

Từ xóm tản cư, trong rừng sâu,
về làng quê nghèo, trên lưng trâu,
theo bạn, học lóm con chữ đói,
bên thềm lớp bụi, mái bích câu.

Trọ xóm Ruộng Cỏ  cạnh ao sen,
gác cây hoa xoan, thời sách đèn,
quanh mùa hoa nở hương thơm thảo,
đưa đón đi về như thân quen.

Nằm trong lưu bút ngày hạ tàn,
phượng hồng, huệ trắng, cúc dại vàng,
mắc cở, sầu đâu, bằng lăng tím,
forget me not, dù ly tan.

Lá sen ngày nao thay tờ thư,
đôi dòng ghi nhớ lời giã từ,
khi xa Xóm Trọ, bờ Rạch Chiếc,
lưu niệm mang theo đường phiêu du.

 

 

TỪ GIÃ XÓM RUỘNG

Ngày nao bên nhau ngắm hoa quì.
Bạn từ La Gàn tôi La Gi,
nhưng rồi gió bấc lạnh lùng thổi,
vùi dập đôi bờ hoa lưu ly.

Bạn ở lại quê, tôi ra đi,
bao đêm gió biển như thầm thì,
vi vu dương liễu trong ký ức,
lá úa rụng rời chiều chia ly.

Lưu bút chăn trâu, trang mo cau,
than đen thay mực đã nhạt màu,
nhưng vẫn còn hằn dấu thơ dại,
qua dòng chữ rách, nét thương đau.

Bến đậu mùa đi xa bóng thuyền.
Lá thắm ngược dòng, phận rã riêng.
Trong duyên hạnh ngộ, ngầm phiêu lãng.
Tôi đành xa xứ, xa bạn hiền.

La Gi, 1962

 

Từ QUÊ
lên PHỐ.

Sau ngày đình chiến năm mươi tư,
bao người tản cư đã giã từ,
xa quê xóm mạc, miền hoang vắng,
lên thành tìm nơi chốn định cư.

Trước mắt, đường nhựa chạy ô tô,
vỉa hè lát gạch tận cửa ô,
xích lô, thổ mộ chuyển hành khách,
hàng hóa giao thương nhờ xe thồ.

Nhà hàng, cửa hiệu, tiệm cà phê,
phòng trà, rạp hát, rạp xi nê,
sạp báo, hàng rong, chợ chồm hỗm,
quán cóc, xe mì, gác cho thuê.

Lộ chính phố sang nhà cao tầng,
biệt thự cung đường cỏ mượt sân.
Người nghèo trú ngụ trong hẻm cụt,
ở nhà vùng ven xóm bình dân.

Từ quê lên phố lo làm ăn,
không nghề, không vốn, sống khó khăn,
cửa nhà tạm bợ nơi đất lạ,
long đong khốn khó đủ mọi đằng.

Nhưng người cũ mới tương trợ nhau,
không vì danh lợi hay sang giàu,
chỉ mong đủ sống, đời yên ả,
nuôi trẻ học hành vì mai sau.

Gia Định,1960

 

.

 

NƠI Ở TRỌ.

Đường cát bụi ngờ như còn hoang sơ
đưa tôi tìm nơi trọ miền ngoại ô
bờ Rạch Chiếc, bên này xóm Ruộng Cỏ
xa phố phường sang trọng giữa thành đô.

Một gác gỗ dựa lưng cây xoan già,
tại góc vườn bỏ hoang đầy cỏ hoa,
bên nhà gạch rêu phong mái ngói cũ,
nơi trú chân bao người không cửa nhà.

Sinh viên nghèo xa quê sống bơ vơ,
ngày đi học, đêm dạy kèm trẻ thơ.
Gác yên tĩnh, tôi mong tâm an tịnh,
bớt u hoài, bớt mê muội mộng mơ.

Nhành xoan tím đong đưa trong chiều tà,
làm nhớ lắm đồi sim tím quê nhà,
lan đất tím, hoa mua, bằng lăng tím.
Như tím buồn biệt ly khi chia xa.

Rạch Chiếc,1966

 

 

ĐÊM XÓM TRỌ

Xóm Trọ thường nghe hàng rong rao,
”Ai khoai đậu…bắp”. “Ai su…hào”.
Âm thanh nhỏ nhẹ tựa lời Mẹ
ru con thơ dại một thuở nào.

Người bán hàng rong như Mẹ già,
mong con ăn học theo tinh hoa,
thành người tài đức, có kiến thức,
giúp ích cho đời, cho quốc gia.

Bao gánh hàng rong rao đêm ngày
kiếm thêm thu nhập, thoát nợ vay
hàng bán giá rẻ, biếu gia vị,
giúp người lỡ độ sống đủ đầy.

Người già bưng xách, trẻ gánh gồng
đôi khi long dong, chưa thong dong,
nhưng luôn tương trợ cùng vui sống,
tình làng nghĩa xóm thêm mặn nồng.

Nghe rao, tôi mơ điệu lâm thôn,
du dương dịu lắng trong tâm hồn
nỗi niềm phiêu bạt ngày xa xứ,
gác trọ sách đèn bao hoàng hôn.

Rạch Chiếc, 1962

 

 

TÔI VÀO ĐẠI HỌC

Tôi từ biển mặn, đồng ruộng xanh,
một trẻ chăn trâu lên tỉnh thành
dò dẫm tìm đường vào đại học,
nhiều năm ở trọ nơi Sài Thành.

Hòn Ngọc Viễn Đông, miền đất lành.
Phương Nam, đậu lại cánh chim xanh.
Văn minh Lúa Nước nền Âu Lạc.
Thoát ly phong kiến sau chiến tranh.

Dù như du tử phận mỏng manh,
vẫn theo nguyên lý sự vận hành,
Nhân bản Dân tộc và Khai phóng,
mở tầm hiểu biết dưới trời xanh.

Ở nhờ ăn đậu sống âm thầm,
tự thân rèn luyện xa mê lầm,
kèm trẻ tư gia, dạy tư thục.
nương tựa vào người có thiện tâm.

Dân quê dân phố nghèo hay giàu,
tình làng nghĩa xóm động viên nhau,
giúp trẻ học hành đến thành đạt,
xây đời an lạc cho mai sau.

Sài Gòn,1963

 

 

BÊN THỀM ĐẠI HỌC

Một thoáng nắng bên thềm lớp học
cũng đủ vàng mái tóc em,
một buổi sáng xanh trong mắt biếc
đủ ru ta đôi phút êm đềm.

Chừng như có điều gì e ấp
sách cầm tay mà lòng ở đâu xa
như thời gian hẹn chờ lâu lắm
tà áo mân mê tay nhỏ thật thà.

Trời yên gió sân trường thật vắng
và lòng ta yên tĩnh bên em
như rất đủ trong chiều suy nghĩ
em và ta đâu cần nói gì thêm.

Riêng tặng Thoa
Đại học Văn Khoa Sài Gòn, 1969. 

 

RA TRƯỜNG ĐI DẠY

Ra trường đi dạy trong lặng thinh.
Giã từ đèn sách thời thư sinh.
Xuôi về Miền Tây nhận nhiệm sở.
Xa quê, tự lắng tiếng lòng mình.

Vào đời, tôi nguyện cùng cộng đồng.
Học hành tu tập đạo cha ông.
Nhân bản Dân tộc và Khai phóng.
Từ nền văn hiến dòng Lạc Hồng.

Ngẫm tôi như sậy trước gió sương.
Thân phận mỏng manh lắm đoạn trường.
Dăm con sâu dữ luôn rình rập.
Đôi đóa hoa xinh dịu dàng hương.

Thế thời lùi lại trong bóng đêm.
Nhìn ra ánh sáng soi ngoài thềm.
Dò dẫm tìm về chân thiện mỹ.
Tự dưỡng tâm an, trí tỉnh êm.

Sai Gòn,1969

 

ĐI DẠY ở HÀ TIÊN

Ra trường, tôi chuyển đến Hà Tiên.
Cuối trời đất nước biệt một miền.
Kiên Lương Rạch Giá, vùng oanh kích.
Lênh đênh kênh rạch một đêm thuyền.

Hai chiếc va li một cây đàn,
Đôi ba quyển sách làm hành trang.
La Gi quê mẹ xa ngàn dặm.
Châu thổ sông dài trời mênh mang.

Đất nước chiến tranh lắm đoạn trường .
Tôi vì cơm áo lại tha phương .
Những mong gửi gắm lòng thương nước
vào đàn em nhỏ của quê hương.

Cứ ngỡ tôi như cụ đồ già,
bụi đường mưa gió tóc sương pha,
bút nghiên khăn gói dăm ba chữ,
về ngồi dạy trẻ miệt vườn xa.

Hà Tiên, 1969

 

 

XUÂN XA NHÀ

Một mình trên núi vắng.
Dưới xa sóng bạc đầu.
Gió đùa bông cúc dại.
Hương chẳng ở lại lâu.

Bao xuân rồi xa xứ.
Ngàn dâu xanh Thuận Yên.
Thùy dương xanh biển Ngãnh.
Ngàn xanh chia đôi miền.

Ta nhớ hoài dáng mẹ.
Gầy guộc chiều bên nương.
Tóc trắng bù trong gió.
Còn ta giờ tha phương.

Hà Tiên, 1972

 

 

MƯA PHƯƠNG NGƯỜI

Rồi mai em về thăm quê hương,
biết đâu riêng ta còn tha phương.
Cánh mây trôi nổi theo chiều vắng,
vào không gian bao la phong sương.

Mưa đêm rơi đầy nơi chân trời,
biết đâu thuyền neo khuya bên đời,
lối cỏ hoa mờ trong khói sóng,
lửa chài thấp thoáng bờ xa khơi.

Mưa rơi hiên ngoài vẫn mưa rơi,
mưa sao mưa mãi một phương người.
biết đâu lòng tôi nơi quạnh vắng,
xót một loài hoa trong mưa phai.

Đêm nay mưa hoài, mưa chập chùng,
thương mẹ già nua phố bên sông,
ta mơ bếp lửa chân trời cũ
phương nọ phương này trời mênh mông.

.

GÁC TRỌ NANCY
Cát sỹ ký họa 1963

 

 

NHỚ QUÊ.

Chiều đông giá lạnh đời cô lữ.
Quán trọ quê người nhớ đất xưa.
Kiếm sống tha phương đi biệt xứ.
Mơ về cố quận khuất bao mùa.
Dân nghèo xóm mạc bên nương rẫy.
Nấm mộ cha ông dưới nắng mưa.
Mẹ chắc mong con buồn tựa cửa,
Vời trông bến nước chuyến đò đưa.

CÁT SỸ

Ở HÀ TIÊN
NHỚ LA GI

Bồng bềnh mây qua đảo nhỏ.
Tháng giêng nước biếc chân trời.
Cánh chim mờ vào xa khuất.
Để ta đứng giữa chiều rơi.

La gi xa ngàn dặm lí.
Cuối nơi mây trắng bay về.
Ngút mắt ngóng tìm làng cũ.
Chìm trong khói sóng chiều quê.

La Gi trong ngàn nỗi nhớ
Hiu hiu gió bấc se lòng.
Tình quê lắng nhiều đêm thức.
Đò chiều nhớ một dòng sông.

Bao chiều chưa về biển cũ.
Hà Tiên những lúc mưa qua.
Rì rào bên Hồ Đông lặng.
Tuởng đêm sóng vỗ quê nhà.

Bao chiều điếng lòng vì nhớ.
Chìm trong tít tắp ngàn dâu.
Chìm trong một vùng biêng biếc.
Nghe như biển cũng buồn rầu.

        Hà tiên , 1970

 

XUÂN VỀ
NHỚ MẸ

Mùa xuân về nhớ Mẹ
Lời ru xưa mênh mang
Có bóng cò qua núi
Có đồng quê lúa vàng.

Lời ru hoài ru mãi
Đã ru ai vào đời
Đã ru người nằm xuống
Ngàn sau còn chơi vơi

Mùa xuân về nhớ em
Mái tóc cài hoa sim
Một sớm xuân đầy nắng
Đồi vắng đầy tiếng chim.

Khúc hát trên cồn đá
Trôi mãi theo ngàn mây
Bềnh bồng vào pương nhớ
Trầm lắng trong chiều nay.

Xuân về ta gặp ta
Rong chơi giữa chiều tà
Hái hoa trên núi vắng
Chân mây hồn mơ xa.

 

NHỚ MẸ

Xa xôi nhớ Mẹ nơi quê cũ.
Tóc bạc lưng còng dạ héo hon.
Sầu đông ủ rủ đêm sương lạnh.
Bếp củi tàn tro mảnh áo đơn..

 

 

NHỚ RỪNG MAI

Ta mơ trở lại rừng mai cũ,
Tìm dấu chân quen thuở dại khờ.
Hoa vàng lấp lối về xa khuất,
Cát bụi dày lên lạnh bãi bờ.

 

Nhớ
TRƯỜNG LA DẠ

Dưới mái Trường La Dạ,
ban đồng song, đồng hành,
ghi lưu bút ngày xanh,
khi hạ tàn tạm biệt.

Một lần nhớ mải miết,
dù tùy bút không dài,
dù màu mực dần phai,
vẫn còn trang ký ức.

Vẫn nằm trong tâm thức,
của người đã xa trường,
đã phiêu bạt  tha hương,
lưu dấu bao kỷ niệm.

Khoảnh khắc chân trời tím,
tưởng nhớ về dáng hoa,
hiền dịu trong chiều tà,
trên sân trường Xóm Núi.

Tiếng chim rừng bên suối,
hòa âm lời giảng bài,
theo gió rừng thu phai,
một thời Trường La Dạ.

 

XUÂN
THA PHƯƠNG

Những đàn chim én đã bay xa.
Vài hạt mai non chuyển sắc ngà.
Sân gạch khách về chân lạ lẫm.
Thềm hoang nhà vắng dấu hài hoa.
Mùa đi lưu lạc đâu người cũ.
Xuân đến tha phương nhớ mẹ già.
Cảnh giới vô thường luôn biến dịch.
Chân trời giả tạm một mình ta.

 

 

Xa quê
NHỚ BẠN

Bên tách cà-phê ngồi một mình.
Vườn mai đợi nắng ấm bình minh.
Nghe chim khách hót trên cành trúc.
Nhớ tiếng cười vui thuở học sinh.
Gác trọ chiều mưa câu chuyện phím.
Đường hoa áo trắng mối tâm tình.
Ta nay tóc bạc còn lưu lạc,
Bạn khuất thầy xa núi lặng thinh.

 

CHIM CHIỀU
và LỮ KHÁCH

Chiều hoang đổ bóng chim về tổ.
Lữ khách tìm nơi nghỉ lại đêm.
Núi thẳm rừng xa đôi cánh mỏi.
Thân đơn chốn lạ bước chân mềm.
Đường bay vạn dặm phiêu linh mãi.
Đất trọ không người tĩnh mịch thêm.
Hư ảo chân trời mây viễn xứ.
Mùa trôi xa lắc mộng êm đềm.

GIẤC MƠ
MAi

Đất trọ ngày trôi năm tháng tận.
Ta về quạnh quẽ ngóng trời xa.
Đường đời vội vã người xuôi ngược.
Phố chợ ồn ào khách lại qua.
Kẻ mọn bôn ba nơi viễn xứ.
Thân hèn lạc bước chốn ta bà.
Mơ mai trở lại miền u tịch.
Nghỉ tạm như nhiên dưới bóng hoa.

..

CÁT HOA
trên đồi Thùy Dương
Cát Sỹ ký họa 1969

 

 

VỀ THĂM  MẸ

Lưu lạc bao năm con về đây.
Thương biết bao nhiêu dáng Mẹ gầy.
Mái lá nghiêng che đời khốn khổ.
Tóc Mẹ giờ đây trắng như mây.

Gió bấc lạnh đầy sau liếp thưa.          
Chăn đơn áo vải cho qua mùa.
Bếp chiều quạnh quẽ thêm tro bụi.
Than củi vô tình trước nắng mưa.

Mẹ đón con về bên bờ hoa.
Thương con thơ dại mắt lệ nhoà.
Nước trầu đỏ quệt ngang tiếng khóc.
Thấm tận hồn con nỗi xót xa.

      Tân Lý, một chiều mưa.

 

 

VỀ THĂM QUÊ XƯA.

Đường về thôn xưa hoa rơi đầy.
Ngàn mai đâu hay ai tìm ai.
Lời Mẹ ru ta hồn đất cũ.
Quê làng hương biển hương rừng bay.

Tha phương thương quê lòng không nguôi.
Bao mùa xuân thu bao buồn vui.
Đục trong còn mất đời dâu bể.
Kẻ ở người đi luống ngậm ngùi.

Hiên sau nghe thơm mùi tro than.
Hơi đông còn vương khi mùa tàn.
Bạn ngày thơ ấu cách biệt mãi.
Quê Mẹ một mình buồn mênh mang.

 


VỀ ĐỒNG

Con về đồng nội.
Rong chơi trong chiều.
Lưng bờ cỏ rối.
Hoa dại ít nhiều.

Hương đầy tay áo.
Theo mây về trời.
Cây vông cây gạo.
Đỏ hoa lại đời.

Tiếng chim bên suối.
Gọi chiều qua mau.
Cha về khuất núi.
Buồn dài mai sau.

 

VỀ NGANG NHÀ XƯA

1.
La Gi, ly gia buồn mông mênh.
Tôi về tìm đâu ngày bình yên.
Đất đai ngủ lạnh, hoa dại thức.
Hờ hững đường quê, phố lãng quên.

Tôi về còn ai mong đi thăm.
Tôi về lạ lẫm như trăm năm.
Tượng đá vườn cây nhìn ngơ ngác.
Cội trúc hoang sơ tự lên mầm.

2.
Tôi về ngang đây thăm vườn hoa.
Dường như cỏ cây đâu xóa nhòa.
Vàng thu khóm cúc lặng lẽ nở.
Một thoáng hoàng lan vương chiều tà.

Dừng chân đôi giây bên hiên ngoài.
Nghe như ngọc anh hương còn bay.
Hàng cây nguyệt quế thơm hoa cũ.
Bao mùa kỷ niệm còn đâu đây.

3.
Nhà xưa tường vôi nay sơn xanh.
Ai nghiêng vai nhỏ ngồi sau mành.
Và bầy chim sẻ trên mái ngói.
Nào hay tôi như một lữ hành.

VỀ ĐỒI  SIM

Đồi Sim trời mưa mãi.
Khúc nhạc chiều mùa đi.
Một đóa hồng nhung đỏ.
Suối Đó trôi thầm thì.

Tôi bao lần xa xứ.
Phiêu bạt nơi chân trời.
Nhớ con đò Tân Lý.
Sông Dinh mùa êm trôi.

Đóa hồng lặng lẽ nở.
Khúc nhạc rừng êm du.
Đồi Hoa Sim mưa mãi.
Hương sim bay mơ hồ.

Năm tháng không ở lại.
Khúc nhạc chiều mùa đi.
Một đóa hồng nhung đỏ.
Bên suối mưa thầm thì.

La Gi, 1962

 

ĐỒI CỎ CÚ

Xưa lên đồi cỏ cú,
thả hồn tôi theo mây,
để trâu về đồng vắng,
tuổi thơ trôi từng ngày.

Qua bao đồi cỏ cú,
qua dặm đường gập ghềnh,
bạn chơi ngày đồng nội,
còn ai nhớ ai quên.

Qua bao đồi cỏ cú,
buồn nhớ chị chiều xưa,
về quê chồng xa lắc,
con đò dòng sông mưa.

Về qua đồi cỏ cú,
quê ngoại chưa vào thu,
lúa đồng còn xanh mạ,
tóc Mẹ đã sương mù.

Về qua đồi cỏ cú,
giờ Cha cũng xa xôi.
chỉ còn chân trời thẳm,
áng mây trôi muôn đời.

Tân Lý,1973

 

Tìm thăm
NHÀ THÔN CŨ

Tìm thăm nhà thôn nơi bưng biền.
Gác cây bên suối rừng tịnh yên.
Thảm cỏ đôi bờ viền cổ thụ.
Một miền ký ức thuở hoa niên.

Đường ngang sân hoa xanh rêu phong.
Thiên lý tàn khô hương phiêu bồng.
Cội mai lặng lẽ bên khóm trúc.
Bàn thiên nhang khói hồn tĩnh không.

Dừng chân đôi khi đời tha phương.
Từ biệt ra đi bao mùa sương.
Nay nhà hoang trống, người xa khuất.
Bên hoa còn lại nỗi buồn vương.

Mong ngày tang thương rồi qua đi.
Đất trọ xóm nghèo nơi biên thùy.
Cùng về nhóm lửa đêm hoa mộng.
Ngờ đâu thăm thẳm đường biệt ly.

 

Về
HÁT ĐỒNG DAO

Tôi về hát bài đồng dao cũ,
trên đồi xanh, trên những dòng sông,
hương cỏ dại bay đầy trong tóc,
nghe buổi chiều rớt giữa mênh mông.

Tôi về hát bài đồng dao cũ,
của một thời bắt dế chăn trâu,
mùa bấc thổi lạnh đồi cỏ cú,
và mây chiều lơ lửng về đâu.

Tôi về hát bài đồng dao cũ,
lời Mẹ thời ru con trong mưa,
cùng giun dế hát ngoài bờ cỏ,
lá tre vàng bay ngang liếp thưa.

Tôi về hát bài đồng dao cũ,
khi tóc chiều đã trắng như mây,
như quên mất một thời bé bỏng,
bàn tay tìm sưởi ấm bàn tay.

 

VỀ ĐỒI GIÓ

1.
Ban sơ ngọn Đồi Gió.
Dưới mây trời quê hương,
Trước mặt bờ Đại Dương.
Sau lưng cánh Rừng Cọ.

Bên Sông Dinh, Suối Đó,
Đá Dựng hoa anh đào.
Vườn Trầu lựng hương cau.
Thôn Dâu tơ tằm nhả.

Dân quê, người chằm lá.
Người đan lát tre mây
Người làm rẫy làm cây.
Sống bình an thân thiện.
2.
Tỉnh Bình Tuy thêm huyện,
Thêm nhà thương, nhà thờ.
Đồi Gió xưa xanh lơ.
Nay khai sanh DốcTỉnh.

Tôi một chiều thanh tịnh.
Về đất Mẹ thân thương.
Nghe bấc lộng ngàn phương.
Thầm nghĩ về Đồi Gió.

Tân Lý 1962

 

NỖI NIỀM

Chiều đó tôi về thăm quê ngoại.
Đường làng quanh quất những bâng khuâng.
Đồng không mái lá mùa bấc lạnh.
Gọi bóng ngày xa những chập chùng.

Nhớ mãi người đi trong khói lửa.
Tôi lặng bên bờ suối vắng êm.
Từ đó hồn thêm sầu chia cắt.
Âm thầm bóng lẻ suốt bao đêm.

Tôi đứng một mình trên lối hoang.
Thương miền quê Mẹ ngập điêu tàn.
Nóc chuông ngó xuống miền thánh địa.
Và trọn hồn tôi một nỗi buồn.

Giữa những hàng rào dây kẽm gai.
Tôi như khách lạ của bao đời.
Vườn không đồng trống người xa khuất.
Sông vắng đò ngang một dòng trôi.

Trên ngảnh Tam Tân một đêm đen.
Nửa hồn nhung nhớ nửa ưu phiền.
Nơi đây xa cách bao người cũ.
Tôi viết bài thơ ghi nỗi niềm.

.

tranh của Thomas Kinkade
nguồn internet

 

VỀ LẠI LA GI

Thôi xin giử lại mộng đầu
dù bao mưa nắng đã nhầu đôi vai
với yêu thương một dòng đầy
một mùa tuổi nhỏ tháng ngày lênh đênh

Về xe dốc đổ chênh vênh
dưới xa biển biếc hai bên rừng già
mênh mông xanh một Hòn Bà
mờ trong chiều xuống núi Tà Cú xanh
vườn ai sợi khói mong manh
hiu hiu bấc biển thổi quanh phố phường

Ta đi kiếm sóng tha phương
hành trang sách vở gió sương đầy hồn
ta về lòng dạ héo hon
một hàng phượng đứng dài con đường chiều

Bạn ngày trước con bao nhiêu
đứa đi đứa ở cũng tiêu sơ rồi
và em xưa đã xa xôi
giữa chiều đất Mẹ bồi hồi một ta.

 

VỀ LA GI DẠY HỌC.

Xa Mẹ từ nhỏ, sống tha phương.
Đi học đi dạy tại nhiều trường.
Từ giã Hà Tiên về quê cũ.
Thầm lặng buồn vui ngày hồi hương.

Bao mùa lưu lạc sầu lê thê,
ước momg Đất Tổ được quay về,
dù ở làng chài hay xóm ruộng,
dù phải đối diện với não nề.

Ngày tôi thuyên chuyển về La Gi
Dạy Trường Công lập tỉnh Bình Tuy,
Trường tư Vinh Tân, Trường Quảng Đức.
Gặp lại bao người từng chia ly.

Đất xưa hội ngộ nhóm Tứ La,
thân hữu chăn trâu thời tuổi hoa,
cùng nhau tìm hiểu về nguồn cội
Huyền thoại Dinh Ông với Đảo Bà.

Về bên ba má bên mẹ già,
thân bằng quyến thuộc nơi quê nhà,
cùng gia đình nhỏ sống êm ấm,
Giấc mơ thơ dại như nở hoa.

La Gi, 1973

 

VỀ TRƯỜNG  BÌNH TUY

Bao mùa lưu lạc chia ly,
tôi về Dốc Tỉnh Bình Tuy quê nhà.
Hàng dương liễu biếc thướt tha.
Đôi nhành phượng vĩ nở hoa học đường.

Ngỡ như hương cũ còn vương.
Trường làng mái ngói, nền tường đá xanh.
Nhớ xưa mơ được học hành.
Nay cùng đồng nghiệp đồng hành đồng song.

Tha phương khốn khó long đong,
hồi hương sống lại thuở hồng hoa niên.
Thư sinh áo trắng hồn nhiên
giúp tôi ôn chuyện bút nghiên một thời.

Bao trang vở chép mộng đời
Đôi dòng phấn trắng kể lời tổ tông.
Thầm ghi lịch sử núi sông,
cùng nền văn hiến Lạc Hồng nghìn năm.

Bình Tuy trung học lặng thầm
đã từng gieo hạt ươm mầm trong tôi.

Bình Tuy, 1972
CÁT SỸ

 

VỀ LẠI XÓM CŨ

Về đây trong lũng mây chiều
mưa rơi thôn lẻ ít nhiều bâng khuâng
suối trôi trong dáng ngại ngần
người đi đề nhớ đôi lần trong mơ

Bãi hoang với cát lưng bờ
dấu chân chim đã mịt mờ lối xưa
một đời ta những nắng mưa
lời ca dao cũ đong đưa phố sầu

Ta về ngã nón qua cầu
nhớ trang thư cũ những câu tạ từ
có gì đâu một mùa thu
ngày thơ ấu đó cũng mù xa thôi

Giờ ta xóm cũ bồi hồi
nghe hoàng hôn rụng cuối trời buồn tênh.

La Gi, 1973

 

VƯỜN XƯA

Ngày cứ dần trôi theo nắng mưa.
Rừng lá dần khô theo bóng mùa.
Người đi bỏ dại bờ xanh trúc.
Cỏ úa thôn dâu lối lau thưa.

Mấy ngõ hoang khuya trăng dạo chơi.
Vắng người cây cỏ không buồn vui.
vắng người sỏi đá không ngày tháng.
Trên dấu chân quen rêu ngủ vùi.

Ta mong mùa sang người trở lại.
Nhặt cúc tàn thu dưới bóng xanh.
Vuờn thơm mấy độ măng thêm trúc.
Người nhớ hay quên giấc mộng lành.

 

 

NHÀ XƯA

Nhà xưa ở cuối nẻo thôn dâu.
Lối ngõ quanh co khuất phố lầu.
Bụi bám tường vôi mùa bấc lộng.
Rêu phong mái ngói bóng mưa ngâu.
Vài pho tượng đứng buồn năm tháng.
Mấy bức tranh treo bạc sắc màu.
Tịnh xá am mây đều chẳng phải.
Hồn xưa nếp cũ nghĩa tình sâu.

 

 

.

.

.

.

.

.
CÁT HOA
Cát Sỹ ký họa năm 1972

 

DƯỚI MÁI XƯA

Nhà xưa còn nguyên vùng ký ức
dù đã khuất vào xuân xanh
mái cành nôm, liếp lá thưa ngày bấc lạnh.

Bao mùa đi qua cánh đồng trước ngõ
tôi mót lượm gié lúa bỏ quên trong đời
nghe tiếng hát mùa xa thơm mùi rơm rạ
lời ca dao còn đọng tháng năm.

Một con thuyền ngủ xa xăm
dưới bờ cây những mùa mưa nắng
người giặt áo bên sông, lặng thầm về đâu
tiếng cười rung bóng nước
chiều lắng buồn sông sâu.

Tôi về đây một ngày hoa cúc
buồn vui thinh không như hương cỏ lau
khi được ngủ quên bên thềm trăng cũ
mây trắng bay cao niềm xưa gió thoảng
đường thôn hoa dại nở đầy
đâu cần nhớ chi mấy mùa lưu lạc
hương trời đâu đây.

La Gi, 1973

 

MỘT NẾP NHÀ

Khi chúng tôi về đây
mái tôn sậm màu sét rỉ
nền đất mối xông nứt nẻ tháng ngày
từ đời nghèo chung những bàn tay
xây một nếp nhà
phác thảo những mùa hoa.

Nhà ngói đỏ tường cao
trong vuờn cây ăn quả
nắng sớm phương đông soi hồng khung cửa
đêm tịnh yên thơm thoảng hương trời
gió bâc hiu hiu từ vụng biển
mưa nồm nghiêng những nốt nhạc rơi.

Bạn cũ một thời vắng xa
nên hiên trước đôi khi đầy rêu biếc
và một sân hoa
cội mai vàng nghiêng bên khóm trúc
đàn trẻ nhỏ vui ca.

Chúng tôi quẩn quanh trên đồi xanh Tân An
đời yên hàn ấm áp một niềm tin
đêm soạn bài ngày lên lớp trường bên
tranh thủ sống nhờ bàn tay thợ
đúc bia mộ phụ hồ gia công hàng mỹ nghệ
trồng hoa cây kiểng thêm ít rau màu
buồn vui có nhau nương náu bên đời .

Chúng tôi sống nơi đây đã nhiều năm
Mẹ và Thầy vào cõi xa xăm
Theo mùa hoa nếp nhà thêm hương mới
Sự sống đâu hạn kỳ trăm năm.

La Gi,1980

 

CHIỀU XÓM NHỎ

Chiều bình yên nắng phai dần xóm nhỏ.
Cuối bờ dâu sáng rực ánh điện đêm.
Ở đâu đó nghe đầy hương đất mới.
Hoa cúc vàng thơm thoảng dưới chân thềm.

Nhà tường gạch lẫn trong vườn xanh biếc.
Ô kính màu ẩn hiện sau bờ hoa.
Mái tranh nghèo chìm sâu vào quá khứ.
Chỉ còn nghe chim gọi chiều non xa.

Con dế nhỏ ru nhoè đường hoa dại.
Người về thôn cười nói phía hàng cây.
Em đan áo chờ nghe bài học tối.
Lời ca dao con trẻ lùa sương bay.

 

MẦM TRÚC

Rồi một ngày các con vào đại học.
Ta lặng thầm nhận ra nơi sân hoa.
Khóm thanh trúc nhú thêm mầm măng nõn.
Chim ngói về xây tổ dưới mái nhà.

Ta quên mất đã bao mùa khốn khó.
Các con ngồi học khuya dưới ánh đèn.
Đã thắp sáng trong nhau niềm tin mới.
Nơi quê nhà cuộc sống được bình yên.

Tân An,1992

 

BÊN CỘI TRÚC.

1.
Các con hãy đi đến mùa măng bên cội trúc
hát xanh những rừng lá biếc
đời chưa hẳn là bài thơ vui
nhưng đất cũ quê xưa còn bao điều khắc cốt.

Trên những nẻo đường nắng mưa
có bóng cha ông khòm lưng lên giọt mồ hôi
qua những mùa bấc thổi.

Dưới bóng hoa rơi
thêm bao mùa tàn nở
tiếng nấc cõi người
làm hạnh phúc chơi vơi.

Hoa không tươi mãi
đời vui không thể dài
hãy thật với lòng mình
để hương không phai.

2.
Các con hãy thức trước bình minh
để thấy sự lụi tàn của bóng tối
nơi chân trời.

Ngày mới xua tan đêm đen
nhưng ánh sáng luôn mang bóng tối
trước lửa, bóng núp sau ta không tên tuổi
lửa ra đi khi tro tàn lạnh lẽo
hãy thắp sáng niềm tin
để sự thật không còn u ám.

Ngày không dài như đêm
ngày chưa hết hoàng hôn đã xuống
nhưng mỗi người còn một trái tim
nhịp đều trong lồng ngực
làm nên sự sống của thời gian.

3.
Hãy đứng thẳng trước núi
nhưng mềm mại như sông
chỉ có nước mới lấp đầy mênh mông.

Tặng Thùy Nhi, Cát Đông, Cát Tường
       Tân An,2000

 

HƯƠNG QUỲNH

Tháng giêng đang về phải không anh.
Nhớ xưa thao thức trăng sau mành.
Lá thư phai hết theo mùa gió.
Nhưng vẫn còn đây bóng ngày xanh.

Tháng giêng hoa mai rụng bên thềm.
Mơ màng nhành trúc tiếng ru êm.
Mái rêu vườn tịnh vào giấc ngủ.
Một thoáng hương quỳnh lạc cuối đêm..

La Gi,1969
CÁT HOA

 

DƯỚI MÁI RÊU

Ta về lợp lại mái rêu,
nghe hương đất cũ ngoài lều gió mây,
bụi tro lạnh phủ bao ngày.

Một đời làm thợ làm thầy,
nay xin làm bộ lấy ngày làm đêm,
làm thinh cho lặng lẽ thêm.

La Gi,2003
Đoàn Thuận

.

từ rễ cây Săng Đá.

 

BIỆT XỨ

Cuối đời biệt xứ ra đi.
Hồn thiêng đất Mẹ đạo nghì trên lưng.
Buồn vui thả gió qua rừng.
                                                               
Đường đời phố lạ người dưng.
Bạc phơ mái tóc chưa ngừng lãng du.
Lần mò về cõi thiên thu.

     Thủ Đức,2004

 

BÊN THỀM NHÀ CŨ

Ta về làm giấy bán nhà cũ.
Sau cổng sắt âm thầm,
đám trứng cá mọc hoang khắp vuông sân,
cỏ dại lan dầy đến tận cửa.

Dăm bông bạch hạc dưới tàn vú sữa,
thơm hương đón ta về.
mái rêu tường vôi nhện giăng bốn bề.
vườn hoa tiêu sơ cùng nhật nguyệt.

Khóm thanh trúc lên măng biếc,
ngã bóng lên cội mai xanh,
nhành mẫu đơn cùng cây ngọc anh,
dường như quên cuộc đời tan hợp.

Ta ngồi trước án thư hư mọt,
nơi ánh đèn trang sách, vợ con ta,
bao mùa học đi qua,
mơ một mùa hoa mới.

Vách sờn còn treo tờ thư pháp,
một câu thơ bỏ quên,
trên tượng đá lặng yên,
khuôn mặt vàng bụi phủ.

Bao ngày mái xưa buồn vui thức ngủ,
nay dưới bóng trăng tà,
sương thấm lạnh thềm hoa,
ta nghe ấm một đêm tình đất Mẹ.

riêng tặng Thoa và các con
Tân An, 2007

 

Về lại
ĐẤT TRỌ CŨ

Tôi về lại Thảo Điền đất trọ cũ,
gặp u già ngồi lặng dưới hiên đêm,
mái nhà rêu nghiêng nghiêng vào quá khứ,
bóng trăng non soi lạnh nửa mặt thềm.

Tôi cũng gặp ở đâu trong cõi nhớ,
con đường chiều cỏ dại cánh hoa vương,
em bé bỏng chậm chân về xóm học,
sách cầm tay e ấp lá thư buồn.

Như quên mất đã một thời trai trẻ,
đuổi bắt mình quanh quẩn ở phố mây,
đâu có biết cây xoan thành cổ thụ,
nơi tháng ngày vỗ cánh tuổi thơ bay.

Thảo Điền, một chiều thu

 

BÊN TRỜI

Chưa bao giờ, ta từ biệt con đường xóm mạc đã qua.
Cũng chưa quên bến thuyền vắng, đêm chia ly sân ga.
Dù nơi ấy, đâu cớ gì, biết còn ai mong ta trở lại.
Bởi cõi người, muôn đời, tàn nở những mùa hoa.

Mẹ thôi tựa cửa, mỏi mòn, nhớ đứa con tha phương.
Mái cũ, đổ xuống hoàng hôn khói lửa, tan tát u buồn.
Ánh đèn khuya, bếp lửa chiều, cùng Mẹ hiền khuất núi.
Bờ cỏ, giếng thơi nền gạch, tự bỏ dại hoang đường.

Bạn xưa, một thời bắt bướm hái hoa, rong chơi về đâu.
Mùa mưa rừng, lạnh buốt tuổi thơ, bạt ướt mái đầu.
Vụng biển xa, bất thổi, sóng lấp dấu chân ngày bé bỏng.
Tình ngây ngô, như viên sỏi mắc cạn, bên gành đá rong rêu.

Đất quê, nuôi xanh mùa hoa trẻ thơ, thấm giọt mồ hôi.
Đời xua ta vào gốc khuất, cô đơn phiền muộn, không lời.
Nỗi nhớ cố hương, theo từng bước mỏi, gió sương lận đận.
Thầm giật mình, sao ta cò đây, rong ruổi bên trời.

Ở THỦ ĐỨC
NHỚ LA GI.

Con đường 17 Linh Trung
nối hai đại lộ, một cung phố nhà.

Bắc đông Xuyên Á chạy qua,
đông nam Hà Nội, một xa lộ dài,
vòng xoay bốn hướng Trạm Hai,
bên kia quận Chín, quận Hai, Sài Gòn.

Về hưu tá túc nhà con.
Một miền Thủ Đức đất còn lại xưa.
Hai mùa đắp đổi nắng mưa.
Nắng đầy tháng hạ, mưa lùa thu sang.

Cuối đông nắng sớm hanh vàng.
gió xuân đưa áng mây Hàng bay xa.
cho vườn mai điểm hoàng hoa.
cho ta thêm nhớ quê nhà La Gi.

Đêm nghe xe cộ ầm ì.
Tưởng đâu sóng vỗ bến phi lao buồn.
Tuởng như gió lộng ngàn phương.
Hoa rơi lá đổ trong vườn thu phong.

Nhớ con thuyền bến Tân Long.
Lửa chài soi bóng cây sông đôi bờ.
Đồi Thùy Dương trăng mộng mơ.
Tiếng chim âu biển ngang Hồ Núi khuya.

Linh Trung, 2004


TẠ ƠN MẸ

Trong vườn cây lâu năm.
Nhà Mẹ hướng nhìn mặt trời mọc.
Một cây nguyệt quế thơm.

Ngày mùa hương đòng mưa.
Biếc cỏ sông dài hoa nắng rụng.
Bóng Mẹ khòm lên xưa.

Trên đổ vỡ suy tư.
Lăn dài giọt mắt chiều của Mẹ.
Chất ngọc màu hoa mơ.

Nỗi nhớ của đất đai,
cày nát lên những mùa thế kỷ.
Mật lúa mọng chín đời.

 

TẠ
ƠN ĐỜI

tạ ơn trời đất núi sông
cho ta xuôi ngược chơi rong một thời
tạ ơn mẹ, tạ ơn đời

Sài Gòn, 1969
CÁT SỸ

.

ĐỒI CÂY DƯƠNG MỘT
Cát Sỹ ký họa 1969

 

ĐOÀN THUẬN
một du tử.    

Đoàn Thuận vào đời tại làng Tân Lý, nơi Cha ông làm lý trưởng một thời. Trong ký ức bé thơ của ông, nơi ông sinh ra là một ngôi nhà cổ với tường vôi trắng mái ngói đỏ trong vườn cây ăn quả và nhìn ra hướng mặt trời mọc.
Trong vườn cây lâu năm.                              
Nhà Mẹ hướng nhìn mặt trời mọc.                                                         
Một cây nguyệt quế thơm.    

Năm 1946, Pháp nhảy dù xuống Đồi Dương, chiếm ngôi nhà làm đồn lính trấn giữ một vùng rừng biển mênh mông. Dân làng táo tác tản cư vào Láng  Đá, trốn sâu vào rừng Dinh Thầy và Cha ông đã qua đời trong năm loạn ly ấy. Từ đó, ông xa Mẹ xa làng theo Cô Dượng trôi dạt về phía nam La Gi. Cũng từ đó, ông như một du tử, một đứa con đi xa luôn nhớ mong về quê nhà.
Có lẽ phận đời ta phải như thế.
Vừa lọt lòng Mẹ, đã xa Mẹ, lưu lạc bên trời.
Chiến tranh đi qua bể dâu đời ly tán.
Cha muộn phiền khuất núi về xa xôi.

Suốt chín năm tản cư, tuổi thơ của ông trôi dài qua bưng tràm Động Chú, rừng già Sao Cháy, nương rẫy Phò Trì, ruộng vườn Cù My, xóm chài Bến Lội, Suối Muồng trong xanh, Bãi Tàu cát trắng, Bàu Sen thơm hương.
Ngày ấu thơ trôi theo những cánh rừng.
Lá thu rụng vàng phía sau lưng.
Ta đâu dám ngoái nhìn đôi xóm mạc.
Đâu thể quên cuộc chia tay nơi miền bưng.

Năm 1954, Ba Nuôi ông về Cái Bè nhận ngôi nhà của dòng họ đề lại và định ở tại đây lâu dài. Dù được dưỡng nuôi đùm bọc trong tình thương của cô dượng mà ông yêu quí như ba má, ông vẫn không quên được những ngày ấu thơ bên Mẹ. Ngay sau đó, ông về lại Tân Lý tìm thăm mẹ. Chiến tranh đi qua, họ hàng ly tán, ngôi nhà xưa thành đống gạch vụn. Mẹ ông ở nhờ nhà một người dì, đào chang chép hái sâm cát, sống qua ngày.

Ông xin phép Ba Má ở lại Tân Lý một thời gian, chăn trâu mướn để phụ Mẹ dựng căn nhà lá trên nền cũ đất xưa.
Lưu lạc bao năm con về đây.                                  
Thương biết bao nhiêu dáng Mẹ gầy.                  
                                               
Mái lá nghiêng che đời khốn khổ.                                                    
Tóc Mẹ ngày nào trắng như mây. 

Gió bấc lạnh đầy sau liếp thưa.
Chăn đơn áo vải cho qua mùa.
Bếp chiều quạnh quẽ thêm tro bụi.
Than củi vô tình trước nắng mưa.

Mẹ đón con về bên bờ hoa.
Thương con thơ dại mắt lệ nhòa.
Nước trầu đỏ quệt ngang tiếng khóc.
Thấm tận hồn con nỗi xót xa.

Cuối năm 1955, Ba ông bị bắt bị đày ra Côn Đảo. Má ông quay về Bình Châu làm thợ may sống cô độc qua ngày. Ông đành từ biệt Mẹ ra đi, về lại xóm nghèo Láng Găng. Một lần nữa, ông như một du tử trôi nổi theo dòng đời.
Chưa kịp về tạ ơn khi Ngoại đau.                          
Lại giã từ quê hương, thương Mẹ bạc mái đầu.       

Đường đời mải miết bao bờ bến.                        

Những dòng sông, con phố, những chuyến tàu.      

Nhiều năm sau, Má ông về La Gi, còn ông tìm mọi cách lên tỉnh vào thành để tiếp tục con đường học vấn.Ông làm nhiều việc,xuôi ngược nhiều nơi và càng lúc càng xa thêm quê mẹ, càng trôi dạt về phương Nam. Từ Bình Châu ông lên Bà Rịa học đệ thất đệ lục, vào Saigon học đệ ngũ đệ tứ, quay về Bà Rịa theo ban tú tài, lại vào Saigon học Đại học Văn Khoa, Đại học Sư Phạm.
Ta vắt kiệt tuổi thơ khờ khạo kiếm sống.             
Đánh đổi từng giọt mồ hôi nuôi nấng ước mơ.        
Cạn khô nước mắt bao đêm thầm nhớ Mẹ.         

Quay quắt qua ngày lủi thủi trên dặm đường xa.  

Năm 1969, ra trường, ông lập gia đình với cô giáo Phạm thị Kim Thoa và đến Hà Tiên nhận nhiệm sở mới.Hà Tiên là miền biển cuối đất nước, biệt mù quê nhà. Dù Thập cảnh Hà Tiên rất thơ mộng vẫn không làm ông nguôi nhớ “La Gi ngàn xanh”, quê Mẹ của ông.
La Gi xa ngàn dặm lí,       .                           
cuối nơi mây trắng bay về,                              

ngút mắt ngóng tìm làng cũ                 
                             
chìm trong khói sóng chiều quê.

Và càng làm ông nhớ Mẹ da diết.
Ta nhớ hoài dáng Mẹ.                         
Gầy guộc chiều bên nương.                           

Tóc trắng bù trong gió.                   

Còn ta giờ tha phương.                     

Năm 1973, ông chuyển nhiệm sở về Bình Tuy để sống gần Mẹ, gần Ba Má. Trong năm này, ông đưa hài cốt Cha ruột từ gò Bà Nghèo về đất thánh Tân Lý, yên nghỉ bên cạnh ông bà nội. Tiếp theo, ông mua đất ở Tân An và dựng một “ngôi nhà với tường vôi trắng mái ngói đỏ trong vườn cây ăn quả” mang hình ảnh ngôi nhà của Cha Mẹ ở làng Tân Lý xưa mà chiến tranh đã làm vỡ tan trong miền ký ức:
Nhà Mẹ ánh lửa bếp chiều ấm ký ức hoang vu.   
ngói âm dương vỡ tan những mảnh vụn kỷ niệm.   

âm thanh ngói rơi xuống tuổi thơ lời ru xưa.                 

Tiếng ngói đổ chạm đáy hồn người tha phương.    
giọt trầu đỏ quệt ngang thềm phố cổ mùa đông.   

dội lên màu khói lửa nhức nhối tâm tư cô đơn.

Năm 2003, khi nghỉ hưu, ông bán ngôi nhà cổ ở Tân An, lấy tiền tu sửa, xây kiên cố gần như toàn bộ mồ mả của ông bà nội ngoại, cha mẹ, ba má và người thân tại đất thánh Tân Lý, nghĩa trang Tân An và một số mồ hoang bỏ quên nơi Động Chú, Suối Cát, Sao Cháy.

Làng Tân Lý là quê Ngoại, nơi chôn cất bao hài cốt của tổ tiên từ đất Quảng về đây dựng làng lập nghiệp. Vườn cây ăn quả trên đôi Tân An là khu vườn của bác Năm Lá nhượng lại, là nơi tiêu biểu cho vùng đất khai hoang của bao họ tộc, cũng là nơi ông lưu giữ một ít đá cổ ở đất La Gi dưới dạng những bức tượng do ông tạc nên.  Do đó, ngôi nhà ngói cũ  trong khu vườn ấy như nơi thờ tự, cũng là nơi vương vấn biết bao kỷ niệm của gia đình ông.           
Ta ngồi trước án thư hư mọt,                      
                           
nơi ánh đèn trang sách, vợ con ta,                  
                                        
bao mùa học đi qua,                                    
mơ một mùa hoa mới.

Vách sờn còn treo tờ thư pháp,                               
một câu thơ bỏ quên,                              

trên tượng đá lặng yên,                           

khuôn mặt vàng bụi phủ.   

Bao ngày mái xưa buồn vui thức ngủ,                       
nay dưới bóng trăng tà,                          
sương thấm lạnh thềm hoa,                     
ta nghe ấm một đêm tình đất Mẹ.

Năm 2007, ông từ giã tất cả, về sống với người con trai Út ở Thủ Đức. Cuối đời, ông vẫn như một du tử biệt xứ ra đi, dù rằng Mẹ không còn tựa cửa mỏi mòn mong ngóng đứa con “rong chơi cùng cát bụi”.                                          .
Cuối đời xa xứ ra đi.                                                                           
Hồn thiêng đất Mẹ đạo nghì trên lưng.                   
                  
Buồn vui thả gió qua rừng.                             

Đường đời phố lạ người dưng.                   
Bạc phơ mái tóc chưa ngừng lãng du.               
Lần mò về cõi thiên thu.

Sài Gòn xưa là miền đất trọ cũ. Về đây, du tử lần mò hỏi thặm những người bạn thời hoa niên, những người đồng song đồng nghiệp đồng hành thời ly loạn. Tất cả như xa lạ, như khuất sâu trong ký ức u buồn. Còn chăng chỉ là những nhóm thân hữu già nua phiêu bạt muôn nơi trên không gian mạng.
Ta về đất trọ qua mùa.                                                         
Tàn tro hương lửa thẹn thùa hôm mai,
Miên man hoa nở hoa phai,
Thu sang lá rụng, đông cài giá băng.                                           

Du tử Đoàn Thuận, vĩnh viễn xa Mẹ, lặng thầm rong chơi qua miền ký ức buồn vui của ông.

             Thảo Điền, 2012
TRẦN CÁT TƯỜNG

.

SÔNG DINH
Cát Sỹ ký họa 1972

 

TÁC GIẢ
.

Đoàn Thuận
Tên thật là Trần văn Thuận, tự Cát Sỹ.
Sinh năm 1943 tại  Lagi,  Binh Thuận.
Giáo viên. Nghỉ hưu ở Thảo Điền, Tp.HCM
[Nguyên hiệu trưởng Trường PTTH Nguyễn Huệ, La Gi].

TRANG VIẾT
của Đoàn Thuận

Thơ Tự do::
+   Mùa bấc biển. [nxb Văn nghệ Tp.HCM,1994]
+   La Gi ngàn xanh [nxb Trẻ 2001[
+   Lửa đêm mưa.  [nxb Trẻ, 1998
+   Khoảng lặng của hoa. [ nxb Trẻ, 2001]
+   Tượng. [nxb Trẻ, 2002]
+   Đời sậy  [nxb Trẻ 2003]
+   Sắc phượng. [Hội VHNT Bình Thuận,2006 ]
+   Rong chơi cùng cát bụi. [nxb Văn Học, 2012]
+   Mái xưa  [nxb Văn học,2013]
+   Dưới hoa [nxb Văn Học 2013]
+   Sài Gòn và tôi. [ in vi tính
+   Búp sen (thơ thiếu nhi) [in vi tính]
+   Mùa trọ học  [in vi tính]

Lục bát:]
+   Lời chiều.(lục bát tứ tuyệt)  [nxb Trẻ, 1996]]
+   Lửa đầu non. (lục bát trường thiên)  [nxb Trẻ, 1999]
+  Tạ ơn đời (lục bát tam cú)  [nxb Văn học 2013
+   Đường Thi [ thơ dịch]  [nxb Văn Học, 2012]
+  Thơ thiền Vương Duy (thơ dịch)  [nxb  Thời Đại,,2014]
+  Mây mưa  (truyện thơ) [ in vi tính]

Thơ Haiku:
+   Mùa thạch thảo [nxb Văn Học, 2013]
+   Giọt mùa (thư pháp) [ in vi tính]

Thơ Trào phúng:

+  Đất và Người  [ nxb Thanh Niên, 2013]
+  Những điều nghe thấy[ in vi tính]
+  Tiếng dội từ đất  [ in vi tính ]
+  Nghe thấy và nghĩ [ vi tính ]
+  Họa hủy diệt [in vi tính]

Tùy bút
+ Sậy dại trước gió mùa.

.