ĐOÀN THUẬN 2

.

ĐOÀN THUẬN 2
vẫn
RONG CHƠI CÙNG CÁT BỤI

*




”NGƯỜI GIEO NHỮNG MÙA HOA”
_____________________________
Tg. LÊ NGỌC TRÁC



Người về gieo hạt mùa sau
Trên hoang vu đất giữa màu tàn phai
Chắt trong một giọt nắng đầy
Lửa nhen bếp lạnh thắp ngày cho đêm.

               Đọc qua một lần, thêm một lần nữa, những vần thơ “Dưới Hoa”  của Đoàn Thuận, ta nghe lòng mình rung lên nhè nhẹ. Và, trước mắt chợt hiện hình ảnh: giữa mông lung tăm tối, bừng lên ánh lửa, từ hoang sơ điêu tàn, hứa hẹn những mùa xanh.

               Với tập Dưới Hoa, Đoàn Thuận vẫn viết về những miền quê yêu dấu, về tình yêu và nỗi nhớ một thời vàng phai, những cảm nhận sâu sắc về đất nước, dân tộc, vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống, nhưng với bút pháp mới tinh tế. Ý tứ cô đọng đến bất ngờ. Giai điệu âm tiết nhẹ nhàng nghe chừng như mong manh mà lắng sâu. Người đọc dễ bắt gặp nỗi niềm riêng của mình trong thơ Đoàn Thuận. Buồn nhưng không bi lụy. Trong tĩnh có động. Có những bài chỉ vài nét chấm phá như tranh thủy mặc, nhưng ý thơ vẫn đậm đà tha thiết. Có những bài thơ ngắn ngủi, nhưng khi đọc xong gợi mở trong chúng ta nhiều điều vừa xa vừa gần của cuộc sống.                      .

                Riêng tôi , khi đọc thơ Đoàn Thuận đã cảm nhận ra một điều: đi qua những bến bờ hư ảo từ Lời Chiều ngân vọng, trải dài trên mông mênh ngàn xanh, Đoàn Thuận đã thắp lên ngọn lửa hồng trong mưa đêm. Suốt bao năm qua, Đoàn Thuận vừa dạy học vừa làm thơ. Không ồn ào, không đánh đố người đọc bằng câu chữ, Đoàn Thuận âm thầm sáng tác, gắn bó đời mình với thơ ca, với cái đẹp, như người nông dân cần mẫn trên ruộng đồng dù nắng quái mưa sa, vẫn kiên trì gieo hạt. Và Đoàn Thuận thật sự trở thành người gieo những mùa hoa. Những mùa hoa  thơ Đoàn Thuận lung linh sắc màu trong sương mai, ẩn dấu nụ cười xanh mắt lá vương hương bên đời.

LÊ NGỌC TRÁC
.

.

MÙA HOA và  TÔI

Bao mùa hoa đi qua đời tôi.
Màu phôi pha phiêu diêu về trời,
hương thơm thảo lặn vào ký ức,
dù tha phương luân lạc chơi vơi.

Hoa mua non xanh tròn thơ ngây
không âm thanh nương theo chân ngày,
đã cùng tôi chăn trâu xóm ruộng,
thả vui buồn qua đồi cỏ cây.

Bao sân trường đường hoa không tên,
lời thầy cô thời xưa đâu quên,
gác hoa xoan bạn bè sách vở,
như còn nguyên dù đời gập ghềnh.

Hoa lưu ly lưu sầu chia ly,
lời nguyền xanh mong manh ra đi,
cánh hoa ép đôi trang nhật ký,
vẫn vương mang hương tình xuân thì.

Hoa sơ khai rồi hoa tàn phai.
Tôi rong chơi bên hoa đường dài,
ghé đất trọ tưởng niệm mùa cũ
theo hương trầm lần về một mai.

ĐOÀN THUẬN




_____________________________________________________
 Bài trên đây được lưu lại dưới tiêu đề  
" Đoàn Thuận dạy học và làm thơ "

.

ĐOÀN THUẬN 2
đăng một số bài LƯU BÚT
và vài tập thơ của Đoàn Thuận.
[ Lưu trữ theo ngày tháng ]

 

 *

Thơ Đoàn Thuân lưu trong
RONG CHƠI CÙNG CÁT BỤI

[nhấn vào
tên tập thơ để đọc]

1.LỤC BÁT

+ Tạ ơn đời (Lục Bát tam cú)[ nxb Văn học 2013] (đoàn thuận tr.7))

+ Lời chiều. (Lục Báttứ tuyệt)[nxb Trẻ, 1996] (đoàn thuận tr.5))
+
Lửa đầu non.(Lục Bát trường thện)[nxb Trẻ,1999]  (đpàn thuận tr.6))

+ Mây mưa  [truyện thơ, in vi tính] (đoàn thuan tr.16)

2. THƠ TỰ DO
+ Rong chơi cùngcát bụi. [nxb Văn Học, 2012](đoanthuan tr.3)
Mùa bấc biển. [nxb Văn nghệ ,1994] (đoàn thuận tr.17)

Lửa đêm mưa.[nxb Trẻ, 1998] (đoàn thuận tr.12)

+  La Gi ngàn xanh  [nxb Trẻ 1997] (đoàn thuận tr.19)

Dưới hoa [nxbVăn Học 2013] (đt.14)

Sắc phượng.[Hội VHNT Bình Thuận] (đoàn thuận tr.9)

Khoảng lặngcủa hoa. [ nxb Trẻ, 2001] (đoàn thuận tr.15)

Tượng. [nxb Trẻ,2002[đoàn thuận tr.13]
 + Mái xưa  [nxb Văn Học,2013] (đoàn thuận tr.8)
 + Đời sậy [nxb Trẻ2003] (đoàn thuận tr.18]
 
+ Sài Gòn vàtôi.[in vi tính] (đoàn thuận tr.3)

 + Búp sen [thơ thiếu nhi] (đoàn thuận tr.11)
    Mùa trọ học (đoàn thuận tr.10)

3. THƠ HAIKU

+ Mùa thạch thảo [nxbVăn Học, 2013] (haiku tr.2)

+  Giọt mùa [thư pháp], [in vi tính]h]

4. THƠ ĐƯỜNG LUẬT :
+ Dấu xưa [in vi tính] (đường luật tr.2)


5.THƠ DỊCH  [dịch sang thể Lục Bát]
+   Đường Thi [nxb Văn Học, 2012]
(thơ dịch tr.2)
Thơ thiền Vương Duy [nxbThời Đại,2014]
(thơ dịch tr.9)

6. THƠ TRÀO PHÚNG :

 + Đất và Người.. [nxb Thanh Niên, 2013] (trào phúng tr.48)
)
+ Những điều nghe thấy [in vi tính] (trào phúng tr.51)

+ Tiếng dội từ đất [in vi tính]  (trào phúng tr.50)

+  Nghe thấy và nghĩ.[in vi tinh]  (trào phúng tr.53
)
+ Họa hủy diệt [in vi tính]
[tràn phúng tr.52]


7.TÙY BÚT 
+ Sậy dại trước gió mùa (lưu bút tr. 22)
                          

8.TƯỢNG ĐIÊU KHẮC
+ 29 tượng bán thân được chạm từ vài loại đá đặc biệt ở La Gi
+ 7 tựợng nhỏ từ rễ cây gổ quí
ở La Gi.
+> tượng đá và tôi [lưu bút tr.2


 


                    


 


                                                                                                                       tranh của David Roberts


 



ĐOÀN THUẬN LƯU BÚT
______________________________________

TRẦN CÁT TƯỜNG

 

          Lưu bút là trang viết tay lưu lại bút tích riêng của một người. Bút tích ấy có thể nhìn thấy ở con chữ, dòng văn, nét ký họa; không thể nhìn thấy nhưng có thể nhận ra tình cảm lặng thầm, ý nghĩ riêng tư…Thế nên, lưu bút cũng là lưu dấu, lưu niệm của tháng ngày đã xa xưa, đã cũ kỹ, khuất lấp theo cát bụi.

Những dòng lưu bút bụi vàng khô .          
nét chữ trang thư mực đã mờ.                                                           

cánh hoa phượng ép ngày tháng cũ.                                                  
lời người heo hút nỗi buồn thu.              


          Trong thời ly loạn, không ai dám chắc sẽ tiếp bước trên đường đời. Học sinh trung học, sau mùa phượng vĩ, nghĩ đến lúc chia ly, dường như ai cũng muốn “lưu bút ngày xanh”. Trong đó, bạn đồng song tự tay ghi lại bao kỹ niệm dưới mái trường. ghi lại bóng ngày xanh, giấc mơ tuổi trẻ. Thời gian trôi qua, bạn học cũ mỗi người một phương, con chữ ngày nào như bò ngang qua ký ức, gợi biết bao nhớ nhung .

Con chữ cũ bò qua dòng kẽ nhỏ.               
mờ nhạt theo vệt mực loang chiều mưa.  
gọi nỗi nhớ về ngang miền ký ức.          
áo thư sinh bạc phếch tự bao mùa.

            Sau năm 1994, Thân Hữu của ông ở nhiều nơi gửi về ông những trang viết, dòng thư pháp, nét ký họa trước 1975 do chính tay ông ghi vào tập lưu bút của những người bạn xưa, những bạn đồng song, đồng nghiệp, đồng hành trong tháng ngày cũ.

Đã xa vắng đôi bóng hình thơ dại.           
tờ thư xưa không ghi trọn niềm vui        

những trang viết phất phơ màu ly biệt    

lời chia tay ước hẹn giữa ngậm ngùi

         Rồi một ngày, xa lắc dáng thư sinh, biền biệt bóng người cũ,quạnh quẽ trước bút nghiên, bạc phơ đầu du tử.                          .

Ngày xế bóng lật lại trang đời cũ         

giấy mực đâu lưu mãi nỗi niềm riêng.                              
.người biền biệt chân trời nào viễn xứ  
tôi một đời cô quạnh trước bút nghiên.

          Những trang lưu bút mà Thân Hữu của ông đã sưu tập và giúp ông in thành sách chỉ là một phần của cuộc đời, do “con chữ cũ” ghi lại 

          Con chữ, mảnh giấy, giọt mực tự nó vô tư. Con đường, mảnh đời, giọt thời gian mang ý nghĩa nhất thời. Tất cả luôn chuyển dịch, sẽ mục rã, nát tan, khuất dần. Chỉ nhừng điều bên ngoài con chữ trang viết, bên kia thời gian, sẽ tồn tại lâu dài trong tâm trí của người yêu quí sự thật.

Thảo Điền, 2014.                               
TRẦN CÁT TƯỜNG.
.




LƯU BÚT. NGÀY XANH

Một trang “lưu bút ngày xanh”
của thời trung học nơi thành phố xưa.
Mực nhòe màu nước hạt mưa.
Đâu hay giọt lệ tiễn đưa ngày nào.

Bao mùa nghiên bút bên nhau.
Tiếng ve cánh phượng bay vào mông mênh.
Xa trường lưu lạc lênh đênh.
Từng dòng chữ cũ gợi lên nỗi buồn.

Gợi âm tiếng mõ hồi chuông.
Lời kinh tụng niệm về nguồn an nhiên.
Thầm mong xứ sở bình yên.
Ngây thơ trang viết thắm duyên hẹn thề.

Người đi mù mịt sơn khê.
Người về gió bụi tư bề quạnh hiu.
Ngày xanh lưu bút đôi điều.
Ngày tàn con chữ thiu thiu ngủ thầ

An Nhơn,1964
.

 

LƯU BÚT XƯA

Đôi trang lưu bút ngày xưa
nhạt nhòa theo bóng nắng mưa bao mùa.
Lời ghi dưới cánh hoa mua
gợi nhiều kỷ niệm, thẹn thùa riêng tôi.

Bơ vơ khờ dại bồi hồi,
vai đầy cát bụi khi rời cố hương.
Gió đưa phấn trắng sân trường,
pha vào mái tóc màu sương, bạc dần.

Trước dòng chữ viết phân vân,
mắt mờ trán mỏi, lòng bâng khuâng buồn.
Muộn phiền như thể bỏ buông,
nhưng thân chưa thoát khỏi nguồn bể dâu.

Thư xưa tuy đã phai màu,
vẫn thầm nhớ mãi lời cầu bình an.

An Nhơn,1964
CÁT SỸ




 *




TRANG VỞ CŨ

Một trang vở thuở đầu đời,
Nằm yên dưới lớp bụi thời gian qua.
Bỗng dưng một buổi chiều tà.
Hồn văn bóng chữ gọi xa lắc về.

ĐOÀN THUẬN




TRANG SÁCH CŨ

Những trang sách ám bụi dày.
Bìa con mọt nhấm mất ngày thư sinh.
Đôi dòng chữ vẫn lặng thinh.
Trong hồn người cũ bao nghìn thu qua

ĐOÀN THUẬN


 

TRANG SÁCH MÙA TRƯỚC.


Sách thơm mùa trước bụi vàng khô.
Nét chữ trang thư mực đã mờ.
Cánh hoa phượng ép ngày tháng cũ.
Lời người heo hút nỗi buồn thu.

Nước triều lên xuống mãi chân đê.
Mà tuổi đời qua chẳng thấy về.
Cây đường trút lá chờ thu tới.
Ai còn chờ ai trong đêm mê,

Trăng tự ngàn đời rụng bên non.
Hoa nở rồi phai những lối mòn.
Ta ủ hương xưa vào bóng chữ.
Màu chiều chợt điểm nét vàng son.

Sài Gòn, 1964
CÁT SỸ





.

GIỌT THƠ BUỒN


Trang thơ ném xuống chợ trời.
Chìm trong tiếng rú ma hời u mê.
Tiếng cười hài hước nhạo chê.
Trước con chữ rách, giấy rê nát nhàu.

Giữa thời lẫn lộn vàng thau.
Thơ là thơ thẩn, lời rao thị trường.
Tụng ca xu nịnh đế vương.
Bốc thơm quan lớn, xem thường dân đen.

Nằm bên đống rác, cột đèn.
Vần thơ tiếng Việt thân quen dưới trời.
Lời quê dân dã một thời.
Xẻ chia thân phận bao đời nắng mưa.

Giọt thơ buồn rụng lưa thưa.
Trên nền đất Tổ, hồn xưa Lạc Hồng.
Giọt nào theo gió phiêu bồng.
Giọt nào đọng lại trong lòng xót đau.

Thủ Đức, 2010
Đoàn Thuận



TRANG VIẾT
BỊ BỎ QUÊN.

Một trang viết bị bỏ quên.
Trong lô sách báo kẹt bên góc sàn.
Mốc meo theo bước mùa sang.

Nằm im dưới lớp bụi vàng.
Dòng văn con chữ mơ màng rã riêng.
Lời như trầm mặc du miên.

Ý tình mộng mị ảo huyền.
Khuất vào bóng mực hồn nhiên nhạt nhòa.
Màu loang lốm đốm chúm hoa.

Trang đời lỡ dở bút sa.
Lờ mờ một thoáng xót xa u buồn.
Niềm đau đâu rõ ngọn nguồn.

Thời gian tự nó bỏ buông.

Sài Gòn, 1964
CÁT SỸ




TRANG THƠ
và SỌT RÁC.

Ném vào sọt rác thơ tôi.
Người đâu biết được bao lời buồn vui.

Đâu hay trang viết ngậm ngùi.
Nằm chung rác rưởi bùi nhùi tanh hôi.
Trở thành giấy vụn đồ tồi.
Lấm lem nét bút, pha phôi sắc màu.

Lèm nhèm con chữ bàu nhàu.
Cùng bao ý nghĩa lắng vào lãng quên.
Còn chăng như bụi không tên.
Vi vu theo gió, lênh đênh dưới trời.

Tự tôi ghi chú vài lời.
”Những điều nghe thấy”giữa đời đục trong.
Địa đàng, cõi tạm mênh mông.
Thơ thầm lưu lại đôi dòng thực hư.

Giấy, rời khỏi sọt, nát nhừ.
Thơ, quăng vào sọt, tựa thư nghẹn lời.
Lẫn trong bóng tối im hơi.
Ai, người rẻ rúng trang đời câu thơ

La Gi, 1994
ĐOÀN TH
*


*

TRANG NHẬT KÝ

Một trang nhật ký không ngày.
Trên cánh én mỏng đã bay ngang mùa.
Trên màu sắc tím hoa mua.
Trên vô cùng ngọn sóng đùa bãi dâu.

ĐOÀN THUẬN





NHẬT KÝ KHÔNG NGÀY..


Một trang nhật ký ghi nhanh.
Khi thời gian chết lạnh tanh bên đời.

Bỗng nhiên một chiếc lá rơi.
Nơi bàn viết cũ, dưới trời thu phân.
Lá xanh non nớt lần quần.
Rụng trên trang giấy trắng ngần vô tư.

Giấy thầm tự hỏi thực hư.
Vì đâu lá phải giã từ ngọn cây.
Dù chưa héo úa khô gầy.
Dù mùa thu gió heo mây phiêu bồng.

Bút ghi cạnh lá đôi dòng.
Theo lời nhật ký nhưng không tháng ngày.
Chỉ lưu dấu lại cõi này.
Dáng buồn tĩnh tại hình hài lá thu.

Một mai mưa móc âm u.
Màu phai giấy rách chữ lu mờ dần.
Còn chăng cuống lá bâng khuâng.
Rã rời dưới bụi phân thân theo mùa.

Không ngày, nhật ký te tua.

Thảo Điền,2012
Đoàn Thuận




*



TRƯỚC SỰ THẬT

1.
Sự thật đang đối diện sự thật
sự thật không lời như bụi bám dính trên mi mắt
quẩn quanh một ý tưởng bụi.

Sự thật không núp bóng ngụy ngữ mỹ miều
chân lý không thể đốt bằng mọi thứ lửa
như máu thấm đất ba dan màu mỡ thịt da
mồ hôi hoá thạch tâm hồn sông núi
nước mắt ươm mầm nuôi nấng hoa trẻ thơ
lẽ mất còn khiến người và vật biến dịch

cuộc sống ra đi điên đảo
cái chết trở về chân thật

2.
Bóng đêm đôi khi không đồng nghĩa dối trá
từ góc khuất ta nhận ra đốm sáng
tự thân hư huyển mang lịch sử khoảnh khắc ngoài thời gian.

Sự thật không số, không chủ thuyết, không cần giải mã
sự thật a không phi a, không hàm số ax
một chủ thuyết dán nhãn lên đời sự thật méo mó
nơi một thống soái độc quyền sự thật không lên tiếng
đất lặng đá im người cà lăm

Sự thật không cần phơi bày trần truồng thân thể
không cần lụa là son phấn nước hoa cao cấp
cần chân tướng bản nhiên trong tim người

nụ cười xu nịnh giả tạo
nỗi đau nhức thật lòng.

 


La Gi,1976
ĐOÀN THUẬN










tranh của Montserrat Gudiol



CON CHỮ ĐẦU LÒNG
__________________________________________
Đoàn Thuận



                    Khi Pháp trở lại chiếm đóng La Gi, Má tôi bị bắt, Ba tôi cùng bà con chạy dạt vào cánh rừng phía Nam. Gửi tôi ở lại với Bác Tu, Ba và anh Lành chạy giặc tiếp về xa. Nơi ở của gia đình Bác Tu là một chòi lá, gác trên những nhánh cây cổ thụ, khuất sâu giữa Bưng Tràm. Thường ngày, cả nhà đi làm rẫy ở gần đó. Khi có tôi, Bác Tu bảo chị Liêu ở nhà “giữ Bé”. Chị Liêu là con gái duy nhất của Bác Tu,đã từng ở nhờ nhà Ba tôi đi học. Bác Tu và Ba tôi rất thân. Chị Liêu, coi tôi như em ruột, gọi tôi là ” Bé” .                                                                                                                     
               Sợ Bé té xuống bưng, nên đi đâu,Chị cũng dẫn tôi theo. Một hôm, Chị dạy Bé học chữ A. Trên góc tờ giấy, chị viết lớn chữ A làm mẫu, chỉ vào chữ A, Chị đọc và bảo tôi đọc theo. Chị cầm tay tôi nắn nót viết y chữ A mẫu, từ lớn đến nhỏ dần. Rồi, Chị úp tờ giấy cũ, đưa tờ giấy mới, bảo tôi lập lại những gì vừa làm.Tôi nắn nót viết chữ A mẫu, rồi đọc nhỏ dần với những chữ viết tiếp theo. Chị hôn tay Bé và dắt Bé ra trước chòi. Nhìn những bông Tràm đong đưa, tôi reo lên: “A”, đẹp quá!Tôi nhớ mãi nụ hôn của Chị, như lưu dấu một điểm son, một lời khen của Cô Giáo dành cho đứa học trò bé con. Đối với tôi, hôm ấy là buổi học đầu tiên và chữ A là “con chữ đầu lòng”trong đời.           

         Chị tiếp tục dạy từng chữ cái sau A và dạy chữ nào “được” chữ đó. Dạy trò Bé nói viết được chữ “A in” và “a thường”, Cô giáo Liêu dạy tiếp chữ Ă, chữ Â. Tương tự như vậy, khi dạy U,Ư và O,Ô,Ơ…Chị thường dùng hình ảnh của sự vật cụ thể, để dễ nhớ. Chẳng hạn, khi phân biệt ba chữ O, Ô, Ơ, Chị dùng một câu lục bát:“O tròn như quả trứng gà, Ô thời đội nón, Ơ già có râu”. Một chiều, ở dưới bếp, Chị chỉ vòng miệng tròn của một nồi đất, hỏi tôi giống chữ gì, tôi nói O. Chị úp nón lá trên chiếc dừng, tôi nói Ô. Chị để cái muỗng một bên miệng tô, tôi nói Ơ. Chị hôn trán tôi và nói “được lắm”.Cứ như thế, tôi học được cách bỏ dấu trên những vần đơn. Tôi viết được  tên bác TU, anh ẤN, mà chưa viết được tên chị LIÊU.       

          * Hơn một tháng sau, Ba đến đưa tôi về Cù Mi. Khi từ giã, Chị dặn tôi “ráng học để viết được tên chị”. Chị Liêu là Cô Giáo đầu tiên trong đời tôi, Cô dạy tôi đọc được “con chữ đầu lòng.

Cù Mi, 1972. 
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]



*



.
CON CHỮ

DU TỬ
__________________________________
Đoàn Thuận

     
             
Tôi có thói quen ghi lại những gì nghe thấy, từ ngày lên tỉnh thành đi học. Vì tôi là “dân ruộng” quê mùa xấu xí nghèo nàn, nên rất ngại tiếp xúc với “dân phố” sang trọng quyền thế. Khi có điều lo nghĩ, tôi không biết bày tỏ cùng ai, chỉ biết tâm sự với chính mình, qua con chữ nằm im trên trang giấy đầy bụi. Vì đầu óc nhỏ nhoi u mê “cù lần”, trí nhớ mù mờ dễ quên, không dám tin ai, tôi chỉ còn nhờ nét mực chấm phá vài hình ảnh chợt thấy, ký hiệu vài lời nói chợt nghe trên đường đời. Thời gian bình thản trôi, mọi thứ sẽ phai tàn theo, tôi không thể nhớ mãi một nét mặt hồn nhiên thánh thiện, hay suy tư sầu muộn, nhưng đôi dòng chữ sẽ gợi lại đôi điều về dung nhan dáng điệu tính cách của ai đó một thời. “Con chữ” như “đồng hành” bên tôi “rong chơi cùng cát bụi”.                         .                                                                                                                
      Cách ghi chép trên trang tùy bút, đôi khi vụng về thiếu sót, đã gây phiền phức cho vài người.Từng bước, tôi chỉnh sửa rất nhiều, có khi bỏ hẳn một đoạn hay một trang, có khi chuyển từ “văn xuôi” sang “văn vần”, có khi cô đọng trong vài âm tiết. Dù mờ ảo sự thật, nhưng vẫn phật lòng người, nếu ai đó chỉ lướt qua con chữ. Dù đau buồn phiền muộn, vì kẻ dấu mặt mượn câu tùy bút để hảm hại tôi, tôi vẫn lặng thầm cam chịu theo phận mình. Dù nằm trong sọt rác hay thành tro tàn, nội dung tùy bút vẫn sống trong tâm tưởng tôi, vì con chữ như biểu thị một tấc lòng. “Bạo chúa có thể đốt sách treo cổ người viết”, “nhưng không thể cầm tù ý nghĩ thoát thai từ cuộc đời”, không thể giết chết “sự thật lịch sử”. .

       Tháng Tư năm 1975, Ban Quân Quản tịch thu toàn bộ sách báo của chúng tôi, trong đó có 5 tập “Tạp bút”. Nhưng “con chữ” trên dòng ghi chép vội vàng của tôi vẫn được quí Thân Hữu ru êm trong “lưu bút” hay “nhật ký” ở nhiều nơi.                      
          Năm 1994, nhóm Thân Hữu Ba Lá lặng lẽ sưu tầm những bài tôi ghi về “mùa gió”, viết riêng trong “lưu bút” của bạn thân, một thời ở Hà Tiên. Nhà xuất bản Văn Nghệ tp.Hồ Chí Minh biên tâp thành “Mùa bấc biển” và cho xuất bản với tên tác giả Đoàn Thuận. Từ đây, nhiều người gọi tôi là “nhà thơ Đoàn Thuận”. Cũng từ đây, các “nhóm thân hữu” giúp chúng tôi sưu tầm những “trang tùy bút” ký tên Trần Thuận, Thoại Băng, Cát Sỹ. Với sự hổ trợ nói trên, Trần Cát Tường được Nhóm giao tiếp nhận bài vở, biên tập thành sách và xin phép suất bản.                                   .                                                   
         Nhóm Thân Hữu Haiku [đại học Kiến Trúc Sài Gòn] đã liên lạc qua internet, tìm lại được nhiều bức “thư pháp”, nhiều câu “ghi chú” của tôi, theo thể Haiku, khi tiếp cận với các “Quẻ” trong “Kinh Dịch”. Nhóm Haiku cũng đã giúp Trần Cát Tường biên soạn thành “Mùa thạch thảo”(nxb Văn Học, 2013) và “Giọt mùa”(in vi tính, 2014).                     

         Nhóm Thân Hữu Quốc Âm [đại học Văn Khoa Sài Gòn] từ 1996 đến 2014, đã tập hợp những dòng Lục Bát Đoàn Thuận và biên tập thành “Lời chiều”, “Lửa đầu non”, “Tạ ơn đời”,“Thơ thiền Vương Duy”, “Đường Thi”(thơ dịch), và “Mây Mưa”(truyện thơ).                                   .                                                   
        Nhóm Thân Hữu Tam La [La Gi, La Dạ, La Gàn] nhờ người quen lục tìm được một số bài viết về La Gi, và đã xuất bản tập “La Gi ngàn xanh”(nxb Trẻ,1997) và “Mái xưa”(nxb Văn học, 2013).

        Nhóm Giáo Chức Tha Phương [quí Thầy Cô cùng tôi đi dạy trước 75, lưu lạc xa quê hương] sau nhiều năm hỏi thăm tìm kiếm, đã hổ trợ Trần Cát Tường xin phép xuất bản các tập: ”Tượng”, ”Lửa đêm mưa”, “Khoảng lặng của hoa”, “Dưới hoa”, “Sắc Phượng”, ”Búp sen”, “Đời sậy”, “Rong chơi cùng cát bụi”, “Đất và Người”, “Sài Gòn và tôi”. Còn nữa, bao điều tâm tình, không thể in thành sách.
      
         Tôi cứ tưởng “con chữ”, từng đi học đi dạy cùng tôi trước 75, đã bị vùi nát dưới bụi lầm. Nhưng không, nó vẫn yên nhiên bên cạnh bao Thân Hữu Kính Yêu, vẫn mong ngóng gặp lại tôi, thì thầm lời ru xưa.    

Hạnh Thông Tây, 2018.                                                .
ĐOÀN THUẬN                    





   CON CHỮ VỠ LÒNG

Một trang vở thuở học trò.
Ê a tập đọc, ơ o học vần.

Từng ô giấy trắng vuông cân.
Từng con chữ cái bò dần khắp trang.
Âm vần không dấu thanh ngang.
Sắc nghiêng Ngã Nặng Hỏi han dấu Huyền.

Vỡ lòng câu chữ đầu tiên.
Đôi điều “phết phẩy”vào miền âm u.
”Mờ u mu dấu huyền mù”.
Nhắc thầm mù chữ dốt ngu dại khờ.

Chấm than chấm cuối câu thơ.
Như lời than thở i tờ chưa thông.
Để rồi dấu hỏi phải không.
”Tờ i ti sắc… tí” trong mịt mùng.

Vết sâu dấu nặng vô cùng.
Sắc thanh ngữ nghĩa chập chùng tĩnh không.
Đâu hay con chữ đầu lòng.
Nằm trong tâm thức bên dòng thời gian

CÁT SỸ

 

 *



CHÂN BÀN VIẾT


Chiếc bàn viết gãy một chân.
Lâu chưa sửa chữa tựa thân phế tàn.

Vài viên gạch bể kê ngang.
Chồng lên thay nạng chống bàn đỡ nghiêng.
Gạch cong nứt, chẳng còn nguyên.
Thường khi rung lắc làm phiền chủ nhân.

Người ngồi tập viết quen dần.
Dù ba chân gỗ có chân bị kiềng.
Nhưng bàn vẫn đủ bút nghiên.
Bóng đèn, trang sách, vẫn yên phận mình.

Riêng người vắng bóng gia đình.
Không nhà cửa, ghé hiên đình sống chui.
Không bàn ghế, trước buồn vui.
Đành kê giấy trắng lên đùi viết thư.

Ghế bàn nào cũng mục hư.
Chỉ cần mặt phẳng thẳng như mặt bàn.
Để ghi lại thoáng mơ màng.
Theo mùa sương khói lang thang dưới trời.

CÁT SỸ



 

NGỌN ĐÈN DẦU.


Thắp lên một ngọn đèn dầu.
Trong đêm tăm tối, dưới bầu trời sương.
Đồng quê xa cách phố phường.
Thôn nghèo không điện lối đường âm u.

Bao lần sao rụng trăng lu.
Ruộng vườn cây cỏ gió ru u buồn.
Bao mùa giông tố mưa tuôn.
Bờ sông vắng lặng, bến truông mịt mờ.

Ánh đèn xóm chợ lắt lơ.
Bóng con đom đóm phất phơ ngoài trời.
Nhòa vào sương khói chơi vơi.
Giấc mơ bếp lửa thoảng hơi ấm lòng.
*
Đèn dầu thắp sáng đêm đông.
Soi lên trang giấy trắng không một lời.
Người đi biền biệt xa khơi.
Nghiên khô gác bút, bụi rơi âm thầm.


La  Dạ, 1968
CÁT SỸ



NGÒI BÚT LÁ TRE.


Cũ mèm ngòi bút lá tre.
Nằm im dưới bụi, bên khe cổng chùa.

Bao mùa sương gió nắng mưa.
Thân ten rỉ sét, đầu tưa tét cùn.
Cán cây xa cách mịt mùng.
Không còn giấy mực ở chung một thời.

Mực bơm, bút máy lên ngôi.
Viết tay nguyên tử thay đời bút bi.
Bút lông mực xạ bút chì.
Giấy hoa giấy dó đến kỳ làm thinh.
Nhường cho bàn phím màn hình.
Nhẹ tay gõ chữ, máy in ra bài.

Qua thời khăn đóng áo dài.
Thầy đồ lều chõng miệt mài bút nghiên.
Cọ tre chấm mực rẻ tiền.
Đã như yên nghỉ nơi miền lãng quên.


Rạch Chiếc,1962
CÁT SỸ



GIỌT MỰC BUỒN


Trang thơ mực đọng giọt buồn.
Tựa màu tim tím hoa muồng tàn phai.
Loang ra một thoáng u hoài.
Hương xưa sắc cũ đã ngoài thời gian

CÁT SỸ

 





TỜ GIẤY CŨ.


Nhiều tờ giấy bị bỏ quên.
Nằm trong hộc gỗ không tên không ngày.
Ngoài trời sương gió mây bay.
Trong khay bụi bặm bám đầy mặt thư.

Lâu đời giấy má cũng nhừ.
Mù mờ ý nghĩa thực hư thế nào.
Vài hàng chữ tháo viết mau.
Mực đen giấy trắng sắc màu nhạt phai.

Thời gian lặng lẽ trôi dài.
Giấy con mọt nhấm gián nhai bèo nhèo.
Thư từ nhật ký nhăn nheo.
Công văn khế ước giao kèo tả tơi.

Đôi trang sách rách rã rời.
Vùi quên dưới bụi im hơi qua mùa.
Giữa đời còn mất hơn thua
.
Vô tư tờ giấy thẹn thùa lặng yên

La Gi,1972
CÁT SỸ


.




TỰ GHI CHÉP

Sống qua ngày, tôi như một phu chữ.
Bởi tìm đâu ẩn số một tâm hồn.
Khi chữ nghĩa đảo điên đời trong đục.
Thú và Người lẫn lộn điều dại khôn.

Tôi tự mình ghi chép chuyện muôn phương
Chẳng làm thơ, không viết sách học đường.
Chỉ góp nhặt những mảng trời đất nước.
Cùng bao điều biến đổi tang thương.


         La Dạ, 1976
             ĐOÀN THUẬN





ĐÔI DÒNG THẾ SỰ

Ghi về thế sự đôi dòng.
Dám đâu mong muốn bạn lòng cùng xem.

Dù từng thao thức bao đêm.
Nghe sương nhỏ giọt ngoài thềm rêu phong.
Tưởng như ai đó long đong.
Bên trời phiêu lãng buồn lòng lệ rơi.

Ai còn ở trọ góc đời.
Cô đơn trước cảnh ma hời nỉ non.
Kẻ ham vui thú vàng son.
Người lo kiệt sức héo mòn xác thân.

Tôi hanh khô tóc đầu trần.
Mưa rơi ướt đẫm gót chân bùn lầy.
Điếng lòng khi gió thu bay.
Lặng câm nhìn bụi phủ dày trang thơ.

Xa rồi thuở nọ i tờ                                                       
Thời này sóng mạng vỗ bờ thinh không.





NGHE THẤY

NGHĨ

1.
Chúng tôi
tự ghi lại đôi điều nghe thấy trên đường đời
vội vã ghi sợ rằng cuộc sống vội vã trôi
sợ rằng bất trắc xảy ra cắt đứt dòng suy nghĩ
đành nguệch ngoạc đôi câu chưa kịp lựa lời.

2.
Những câu văn
không đầu đuôi như ký, không tình tự như thơ
khi con chữ tự nó không hiểu thấu nỗi đau nhức vật vờ
trang giấy tự nó không thấm dòng máu loang từ xác chết
nét bút tự nó đâu biết chấm phá điểm tô đôi giọt lệ khô.

Xin người đừng ném con chữ vào sọt rác
đừng biến trang viết thành giấy vệ sinh
lửa có thể đốt cháy tất cả trừ chân lý
lời thơ tự nó vô tội, tự nó cũng nuôi dưỡng một mối tình.

3.
Lũ bạc ác
không thể buộc chúng tôi đừng nghĩ suy dù khoảnh khắc
khi chưa điểm sương, tóc xanh đã trắng như tơ
chưa kịp vàng thu, lá non đã úa khô rơi rụng
chưa kịp hoài thai, bao sinh linh đã qua đời lúc ban sơ..

không thể bịt mắt bất kỳ ai trước sự thật nhãn tiền
khi bạo ngược thản nhiên coi mạng người như món hàng
thản nhiên trước cái chết lửng lơ của dân đen nghèo khổ
thản nhiên tham ô mua bằng chạy chức chiếm đất vàng vàng.

không thể bịt tai bất kỳ ai trước lời thủ thỉ thở than
lời lẽ mị đời chỉ ru ngủ chủ nghĩa lợi ích tham tàn
hãy trả lại người cần lao quyền gieo trồng sự sống
bởi muôn loài trên trái đất luôn ước mơ một cõi bình an.

Không thể ném những điều bên kia con chữ vào sọt rác.
Những điều không thuộc về riêng ai.
Đó là tiếng thở dài của người bần cùng khốn khổ,
là lời nguyện cầu được sống làm người.

Thủ Đức, 2011
ĐOÀN THUẬN





KHÔNG LÀM THƠ.

Tôi không viết sách làm thơ.
Chỉ ghi chú vội trên tờ giấy thô.
Đôi dòng nguệch ngoạc ngây ngô.
Về "điều nghe thấy” ngoài ô cửa trời.

Rất nhanh không kịp lựa lời.
Nghe sao thấy vậy tạm thời chép ghi.
Khi cần thêm thoáng nghĩ suy.
Chỉnh chu ngữ nghĩa, chọn thì, đặt câu.

Đôi khi không thỏa nhu cầu.
Nội dung ý tứ đuôi đầu chưa thông.
Nhưng tình vương vấn trong lòng
Mong chia xẻ với cộng đồng buồn vui.

Đường đời muôn ngã ngược xuôi.
Người đi kẻ ở ngậm ngùi chia tay.
Rủi may sướng khổ dở hay
Sổ tay nhật ký lưu ngày gió sương.

Riêng tôi xa mẹ tha phương.
Bạn thân lưu bút mái trường ngày xanh.
Đồng song đồng nghiệp đồng hành.
Bút hoa lưu niệm mộng lành cho nhau.

Thời gian lặng lẽ trôi mau.
Một giây ghi nhớ, mai sau vẫn còn.
Trăm năm nước chảy đá mòn.
Tâm tình chân thật, sắt son trọn đời.

Không là thơ kẻ xu thời.
Chỉ là tùy bút ghi đời bể dâu…

ĐOÀN THUẬN



KHÔNG SÁNG TÁC.


Tôi thường ghi lại đôi lời.

Về điều nghe thấy giữa đời đục trong.
Về bao du tử long đong.
Về thời mây khói, cầu vồng, bể dâu...

Đơn côi trôi nổi về đâu.
Rừng thu ru mãi những câu hú buồn.
Con dân phiêu bạt lệ tuôn.
Tôi mong được hiểu cội nguồn quê hương.

Quí nhân dẫn dắt vào trường.
Làm quen con chữ, văn chương, đạo nghì.
Dạy tôi phương thức chép ghi.
Về chân thiện mỹ theo qui luật đời.

Tôi không sáng tác đùa chơi.
Bút lưu mực thấm trang rời pha phôi.
Nhà thơ xu nịnh chê tôi.
Đồ thằng phản động, rác hôi, mọi hời.

May sao con chữ thay lời.
Vẫn thầm lưu chuyện đất trời thực hư.

La Gi,1994
ĐOÀN THUẬN


*

DU TỬ

CON CHỮ.


Bao mùa ở trọ đó đây.
Phò Trì Xóm Rẫy những ngày bé thơ.
Nghe chim xanh hót trăng mờ.
Nhìn đồi hoa dại, thầm mơ trái rừng.

Giã tử Động Chú miền bưng.
Leo quanh Núi Nhọn, vượt từng Suối Sâu.
Tìm qua Bến Lội Bình Châu.
Trường làng tiểu học tập câu vỡ lòng.

Đi lên Bà Rịa phố đông.
Bơ vơ khờ dại giữa dòng gió sương.
Thầy cô bạn học sân trường
giúp tôi tiếp cận văn chương tú tài.


Sài Gòn tiếp bước tương lai.
Văn Khoa Sư Phạm luyện tài dưỡng tâm.
Dạy tư kèm trẻ nhiều năm.
Tập tành nghiên bút phương châm Thầy Đồ.

Ra trường về xứ Đông Hồ,
Mê âm vọng cổ bên bờ Thuận Yên.
Nơi trường trung học Hà Tiên,
đọc Chiêu Anh Các, ngẫm huyền thoại xưa.

Ba năm dưới bóng nắng mưa
được thay nhiệm sở dù chưa đến kỳ.
Hồi hương đất mẹ La Gi.
Sau lưng bỏ lại thời ly biệt buồn.

Lang thang bên suối cội nguồn.
Cùng hương đồng nội, với luồng gió thu.
Xa rồi đất trọ bụi mù.
Nhớ câu lục bát Mẹ ru thuở nào.

La Gi, 1972
ĐOÀN THUẬN

 

 



.





 

tranh của  Petro Fausto


 BÚT KÝ.
______________________
CÁT SỸ

 

          Sau năm 1954, tôi từ rừng núi ra tỉnh thành đi học. Người trẻ tuổi giàu sang
coi tôi như thằng mọi nhà quê, vẹm con cù lần. Lúc đầu, tôi thấy khó chịu và chẳng
dám nhìn ai hay trò chuyện
với ai, trừ phi họ buộc tôi đối diện. Tôi sống khép kín lặng thầm,
ngại tiếp xúc. Dần dà, tôi nhận ra ai cũng có một số phận và
tự nhủ hãy bình thường với phận mình, dù khốn khó đến đâu.  
                                                                               
         Cuộc đời luôn biến chuyển thăng trầm theo qui luật của nó. Những gì nghe thấy
trên đường đời làm con người suy nghĩ. Nhưng đầu óc nhỏ nhoi sao chứa được mọi điều,
nên đành phải ghi lại
bằng con chữ, trên giấy trắng mực đen, theo một cách riêng.
Có lẽ con chữ đầu tiên trên trang tùy bút của tôi là con chữ ghi lại
lời người trẻ tuổi ở Bà Rịa cười nhạo tôi:          .              . 
.                                                                    
Lô chê ta cù lần.                                              
                                                      
Hoài gọi ta thằng mọi.                         
.                                                               
Ta nghĩ ngợi bâng khuâng.

        Cuộc sống trước mắt, hiển hiện một sự thật, nhưng mỗi người nhìn sự vật theo 
vị trí hoàn cảnh khác nhau, nghĩ ngợi khác nhau, ghi lại cũng khác nhau. Một điều nhờ
Bút “ký gửi”, “ghi lại”, có thể mang đến niềm vui cho người này, nỗi đau cho người khác.
Người đồng thuận động viên, người phản đối trách móc chửi bới, biết đâu mà lần.
Tôi đành nói chuyện với tôi, qua con chữ lặng thầm. Bút không thể theo ý người khác, 
mà phải ghi đúng sự tình.       

          Năm lên lớp đệ thất, tôi ở chung nhà trọ với anh Phi Vân học đệ tứ. Cuối năm học, anh bảo tôi viết cho anh vài chữ vào tập “Lưu bút Ngày xanh” của anh. Tôi đọc thấy nhiều bài rất hay và tự biết mình không thể viết được như thế. Tôi trao tập lưu bút  lại cho anh. Anh cười bảo hãy ghi chính điều vừa nghĩ hoặc ký tên. Tôi dùng cọ vẽ viết tháo từ trên xuống, theo kiểu thư pháp:                                                                                                   
Em                                                                                                                
đâu biết                                   
                      
viết gì                                        
                                                              

mai
anh ra đi.
                                                           

         Đó là con chữ đầu tiên tôi “ký gửi” trên lưu bút của người khác. Tôi tự nghĩ bút ký là lưu lại bút tích hay chữ ký của tác giả, nên không cần thiết phải viết dài dòng. Vài con chữ có thể lưu giữ ý nghĩ, tình cảm, đặc biệt là nét chữ và cách viết của một người. Ý có thể trùng lập, nhưng nét chữ mỗi người mỗi khác. Ý nghĩ, tình cảm sẽ thay đổi theo thời gian, nhưng nét chữ vẫn còn, dù màu sắc phai.                                          

           Thời cắp sách, dường như ai cũng muốn lưu bút, nhất là những ngày cuối năm học, 
hoặc khi chia tay đi xa. Đôi trang tản văn, vài câu thơ trữ tình, chia sẻ niềm vui nỗi buồn
cho nhau. Con chữ, dòng văn, đôi khi, được thay bằng nét họa, chữ ký. Một chiếc lá rơi
có thể biểu tượng cho mùa thu hay chia ly. Hai đường ray tàu tựu điểm nơi chân trời,
như đôi lứa bên nhau thầm hẹn gặp ở ngày mai. Tùy theo quan hệ, con chữ, nét họa hay
cánh hoa ép mang ý nghĩa tâm tình.
          Môt trang bút ký có thể thu gọn trong vài ký tự. Năm học lớp đệ ngũ trường Cấp Tiến 
ở Gia Định, Nga và tôi thường gửi cho nhau những tờ giấy trắng, ở giữa có vài chữ viết tắt
như một ký tự. Người khác coi đó là tờ giấy lộn, nhưng với chúng tôi nó mang ý nghĩa riêng.
Trước khi rời Gia Định về Bà Rịa học, tôi nhận một trang ký tự của Nga, trong đó có mấy
chữ NyT, tôi thầm hiểu Nga yêu Thuận, rồi ghép vào cuốn sổ nhật ký. Tôi liền gửi cho Nga
chữ nyt viết theo kiểu thư pháp, Nga lưu giữ trong nhiều năm. Khi được tin Nga đi tu dòng
tu kín, tôi lên Bà Chiểu đến thăm gia đình. Người nhà đưa cho tôi một khuôn hình, trong đó
có trang ký tự với chữ nyt do tôi viết. Phía dưới chữ nyt, Nga ghi chú: Nga yên tâm
ngủ yên thôi
trong ký ức của Nga y Thuận.

        Năm 2012, tôi về Thảo Điền, đọc lại vài dòng bút ký, buồn lặng thầm.        

 

          Thảo Điền, 2018
            ĐOÀN THUẬN

 


BÚT KÝ

Trang đời con chữ câu thơ.
Sắc thanh âm điệu cậy nhờ bút ghi.
Tình người ấm lạnh thầm thì.
Tự lưu bao nổi vân vi dưới trời.

An Nhơn,1964
CÁT SỸ
ĐOÀN THUẬN




TỰ NHIÊN

Đừng ai đến, đừng ai đi.
Để ta còn lại chút gì như không.
Giọt mùa tự nó mênh mông.

Có gì đâu phải bận lòng.
Lửa hương một giấc phiêu bồng cùng mây.
Buồn vui gì cũng vơi đầy.

Cõi ban sơ đâu tháng ngày.
Rừng hoang lá úa rơi đầy tịch liêu.
Hạt bụi nào cũng xế chiều

ĐOÀN THUẬN


*

 

TỰ TA

Đôi lần ta nhận ra ta.
Buồn đau thuở nọ đã xa lắc rồi.
Còn đây niềm mọn bồi hồi.
Thầm thương nhớ Mẹ một thời thôi nôi

ĐOÀN THUẬN




TỰ BIẾT                                                   

Mất người ta nhận ra ta.
Nghe hương gió sớm biết hoa đang tàn.
Vắng buồn mấy nẻo quan san.

Lầu xưa khuất cánh hạc vàng.
Lời thơ chiều vọng qua ngàn năm sau.
Cố nhân nay ở phương nào.

ĐOÀN THUẬN



TỰ BẠCH


Khách lạ ngờ ta sống khác thường,
Về hưu lẳng lặng giữa quê hương.
Đôi lần khẩn thiết ra ngoài phố,
Suốt tháng an nhiên ở góc vườn.
Tạc tượng ghi sâu tình cố quận,
Trồng hoa ôn lại thú văn chương.
Thăng trầm cơm áo đầu mau bạc,
Chẳng bạc lòng son, chẳng khác thường.


Thảo Điền,2014
ĐOÀN THUẬN

 



TỰ THUẬT

Trọn một đời tôi dưới mái trường,
Bao mùa phượng thắm để tơ vương.
Thư sinh áo vải buồn xa Mẹ,
Giáo chức trường làng sống với lương.
Sách cổ dăm pho nghiền ngẫm ý,
Lan rừng mấy chậu tự nhiên hương.
Nhà xưa xóm cũ về nương náu.
Một tấc lòng quê trước gió sương.

ĐOÀN THUẬN




TỰ CẢM

Cây cỏ theo mùa tự nở tàn,
Hương trời mấy cõi vẫn mênh mang.
Người đi núp bóng nơi quyền thế,
Kẻ đến tìm vui chốn mộng vàng.
Chân tín giữa đời nuôi trí sáng,
Nghĩa nhân muôn thuở dưỡng tâm nhàn.
Dù cho trái đất đầy dông bão,
Gia đạo ngàn xưa chẳng xoá tan.

ĐOÀN THUẬN


 

TỰ TRÀO

1.
Lỡ thầy lỡ thợ hay lần khân.
Lúc tỉnh khi say đâu một lần.
Dạy học quanh mùa không đủ chữ.
Phụ hồ lắm lúc chẳng nên thân.
Buồn tình tạc tượng chơi, vài bức.
Hứng chí làm thơ thử, mấy vần.
Ít bạn, nhiều hoa, giàu gió cát.
Đi về quanh quẩn một vuông sân.

ĐOÀN THUẬN


2.
Khổ cực chân quê xấu lạ thường
Nửa đời bầm dập sống tha phương
Chăn trâu ở mướn thời thơ ấu,
Dạy học làm bia buổi thị trường.
Chẳng biết cúi luồn, nhiều kẻ ghét,
Không quen nịnh bợ, ít người thương,
May sao cũng có căn nhà nhỏ.
Tạm trú qua ngày nhớ cố hương.

ĐOÀN THUẬN

                        

 

TỰ SỰ                    

Từ biệt “mái xưa” buổi thiếu thời.
Dưới hoa” mấy nẻo “đất và người”.
Sau “mùa bấc biển”, “dấu xưa” khuất,
Trước “lửa đầu non”, “sắc phượng” rơi.
Khoảng lặng của hoa”, “mùa thạch thảo”.
Lời chiều” dưới “tượng”, “tạ ơn đời”.
’Đời sậy” ”rong chơi cùng cát bụi “.
Mộng “lửa đêm mưa” ở cuối trời.

Thảo Điền,2014
ĐOÀN THUÂN

 

Ghi chú::
Chữ trong “….” Là tựa tập “tùy bút” của Đoàn Thuận




*



THẦM NGHĨ

Đi về trong cõi tháng năm.
Lặng theo bóng mẹ vào thăm thẳm đời.
Giữa mênh mang biển và trời
Ta nghe giọt hát của lời cỏ cây.

Vội cầm thân phận trên tay
Lửa đêm mưa sưởi ấm ngày bé con.
Yêu người giữa mất và còn
Giữa thiêm thiếp nhớ và mòn mỏi quên.

Bỏ chiều về ngóng mai lên
Mấy bông cúc nở vàng bên phố nhà.
Dòng sông nào chảy về xa
Trong thăm thẳm ấy ngẫm ra bóng hình.

Lặng lờ lánh chốn u minh.
Dò tìm lối ngõ tồn sinh ở đời.
Chắt chiu từng giọt mồ hôi.
Từng hơi thở muộn cuối trời phiêu du.

Ra đi từ cát bụi mù.
Quay về dưới bóng âm u bụi đời.

ĐOÀN THUẬN




THOÁNG NGHĨ.

Ta đâu khác hạt bụi nâu.
Lăn dài vào cõi thẳm sâu tháng ngày.
Đồng hoang đất lở bùn lầy.

Lốc cuồn cuộn thổi cát bay.
Phủ lên lưng nhỏ vai gầy tóc xanh.
Ngây thơ đâu rõ ngọn ngành.

Nghĩ mình phận bạc mỏng manh.
Gió đưa gió đẩy quẩn quanh đường trần.
Lặng thầm nuốt lệ tủi thân.

ĐOÀN THUẬN



NGHĨ TRONG ĐÊM

Hiên khuya bóng đổ bàng hoàng.
Ngoài xa tiếng dế ru vàng cỏ cây.

Bao năm về lại đất này.
Ta nghiêng giấc tưởng như đầy khói sương.
Ngây thơ một lối hoang đường.
Để rêu rong phủ xanh hồn thiếu niên.

Ta đi nhặt lấy ưu phiền.
Gửi vào hương cỏ hoa miền hoang sơ.
Ta về ngần ngại bơ vơ.
Tựa ngày xa Mẹ thời thơ dại buồn.

Chim rừng gõ kiến cuối truông,
Nghe như tiếng mõ đêm trường tụng kinh.
Ta và ta, chỉ một mình.
Nhà xưa vườn cũ lặng thinh lạnh lùng.

Đường đời cát bụi mông lung.
Chân người dẫm đạp chập chùng nắng mưa.
Muôn thu mãi vọng âm thừa.
Nghĩ ta cõi tạm đong đưa phận buồn.

ĐOÀN THUẬN

 

*


NIỀM RIÊNG.


Dường như hạnh phúc giống nhau.
Mỗi người nhận một nỗi đau riêng mình.
Buồn vui hiện hữu dáng hình.

Trước rừng, đá núi lặng thinh.
Lắng nghe lá thắm ru tình xanh non.
Đâu hay gió thổi mất còn.

Nghĩa tình ước nguyện sắt son.
Trăm năm bia đá không mòn tuổi tên.
Dù đời lúc nhớ khi quên.

Thân cô phận mỏng lênh đênh.
Lò mò từng bước gập ghềnh thẳm sâu.
Âm thầm nuốt lệ u sầu.

Ngược xuôi nghiệt ngã về đâu
Người qua bể khổ ruộng dâu điêu tàn.
Kẻ ngồi trên đỉnh giàu sang.

Rã riêng, tàn mạt, huy hoàng.

ĐOÀN THUẬN





NỖI BUỒN NIỀM VUI

 
Nỗi buồn như thể bạn thân,
cùng nhau rong ruổi đường trần ngược xuôi.

Đôi khi gặp mặt niềm vui
bên bờ cát bụi ngậm ngùi xót xa;
vu vơ giữa chốn phồn hoa,
môi cười che giọt lệ nhòa mắt xanh.

Một tôi du tử lữ hành
rời quê xa mẹ quẩn quanh cuối trời.
Sầu đau, tiếng nấc chơi vơi
vỗ về an ủi phận đời tha phương.

Bao mùa trôi nổi dặm trường.
Gian truân phả bóng khói sương mái đầu.
Tóc tơ duyên kiếp bể dâu.
Nỗi buồn tự đến tự bầu bạn thôi.

Niềm vui lẩn khuất bồi hồi,
thầm trong lời mẹ ru nôi ngày nào:
”Dí dầu mưa gió qua mau…”
cho tâm an tịnh trước bao muộn phiền.

ĐOÀN THUẬN




TỰ BUỒN


Đôi điều biết nói với ai.
Khi mùa thu chết bên ngoài hàng hiên.
Nhiều lần bên cạnh bạn hiền.
Giám đâu tâm sự, sợ phiền muộn thêm.

Để rồi thao thức bao đêm.
Nghe sương khuya lạnh bên thềm rơi rơi.
Lơ mơ, tôi tưởng lệ trời.
Buông theo mây nước xuống đời long lanh.

Giọt sương nào cũng mong manh.
Tan vào cỏ dại rêu xanh lặng thầm.
Nơi nào nữa cõi xa xăm.
Gió ru từng bóng sương mầm lênh đênh.

Tôi khờ, nên rất dễ quên.
Việc đời lạ lẫm không tên khó dò.
Bút lá tre, mực học trò.
Ghi lên trang vở nỗi lo riêng mình.
Thế mà con chữ lặng thinh.
Chẳng cho tôi biết sự tình đã ghi.

Thật ra, tôi rất ngu si.
Không xem, đâu nhớ những gỉ đã quên.
Tự tôi lại thấy buồn tênh.

ĐOÀN THUẬN










tranh của Michel Creese




ĐOÀN THUẬN
rong ruổi cùng con chữ.
__________________________________________

TRẦN CÁT TƯỜNG



          

            Xa mẹ từ thuở bé thơ,  như một du tử, Đoàn Thuận  rong chơi cùng cát bụi qua những miền đất trọ, qua những mùa thạch thảo.  Đôi khi, du tử dừng lại dưới hoa bên bếp lửa đêm mưa, tưởng nghĩ về một khoảng lặng của hoa, một khoảng lặng tình đầu đời. Nghe gió mùa bấc biển vi vu lời chiều của cỏ cây, du tử lại nhớ lời ru của mẹ dưới mái xưa cùng ánh lửa đầu non nơi chân trời xa. Một mùa đi, đi mãi, chẳng hạn kỳ, đâu biết khi nao trở về đất cũ quê xưa.

“Đâu biết khi nao sẽ trở về.
từ ngày hạt bụi cõng tôi đi.
bên kia tiếng hát ngàn năm lẻ
trong cuộc rong chơi chẳng hạn kỳ”.               

           Đôi khi, du tử đã cùng con chữ rong ruổi qua cõi người, từ bài học vỡ lòng dưới mái trường qua những mùa phượng, những con chữ phấn trên bảng đen,đến những con chữ ám bụi trong sách cổ, ngày xế bóng. Con chữ bò qua mảnh giấy, lưu lại vết tích vui buồn cùng những điều nghe thấy trên đường đời. Con chữ cũng để lại trong tâm trí  những tia sáng giúp du tử  tìm đường về chân lý, dù còn mê muội tối tăm.

“Con chữ dẫn dắt thời trai trẻ qua khắp sân trường.
qua cảnh hoang vu rừng núi,nơi đô hội phố phường
đánh thức cõi mộng hồn u mê tăm tối,
dò dẫm đường về chân lý dù đắng cay đau thương”.

           Con chữ ấy có thể là những chữ cái trên trang vở học trò đầu đời, cũng có thể là con số trên tấm mo cau ngày chăn trâu nghèo đói, có thể là một dấu hỏi trên chiếc lá khô, một nét thư pháp trên tờ giấy dó, hoặc đôi dòng mực xanh trên trang lưu bút của thân hữu trong tháng ngày tha phương . Cuối cùng, con chữ thay lời tạ ơn đời của Đoàn Thuận về cuộc rong chơi đã qua.

“Tạ ơn trời đất núi sông.                               
cho tôi xuôi ngược chơi rong một thời.
tạ ơn mẹ, tạ ơn đời”
.

* Con chữ vỡ  lòng.
Con chữ đầu đời là một chữ cái trong ô vuông, đôi khi đứng kề bên nhau giữa đôi dòng kẻ, ghép lại thành câu trên một trang vở học trò.

“Con chữ, ký hiệu ngôn ngữ, mang tên chữ cái rời.
cùng tôi rong ruổi qua cõi người
đôi khi nằm im trên trang giấy vô nghĩa.
đôi khi ghép nên câu trong đầu óc nhỏ nhoi tôi”.

           Du tử nhờ con chữ để tập làm văn, tập ghi lại những ngày bé con bên mẹ, dưới mái tranh chiều, bên bếp lửa đêm mưa, như tập tểnh ước mơ về cuộc đời bình yên mai sau.     .

Chữ ê a nguệch ngoạc ngang tuổi thơ nghèo khổ.
vẽ ra vành trăng khuyết ước mơ lơ lửng ven trời.

           Dưới lớp bụi thời gian, vài con chữ như ngủ quên trên giấy, nhưng hồn văn bóng chữ vẫn còn trong trí nhớ của du tử.

“Một trang vở thuở đầu đời
Nằm yên dưới lớp bụi thời gian qua.
Bỗng dưng một buổi chiều tà.
Hồn văn bóng chữ gọi xa lắc về”.                  

           Thế nên, những con chữ đầu đời chính là con chữ vỡ lòng cho những con chữ tiếp theo.
.

* Con chữ đói  trên mo cau.
           Sau 1954, ở Tân Lý, nhiều người nghèo thất học. Dân làng mở những lớp học bỏ túi,vận động người biết chữ giúp người mù chữ học đọc học viết. Vài lớp học mở trên đồi cỏ, bên bờ sông, quanh đồng ruộng cho nông dân nghèo.Trẻ chăn trâu rách rưới  đói ăn, không đủ giấy viết nên lượm que than làm viết, tách mo cau rừng làm giấy.

“Mo cau thay giấy học trò.
Que than làm bút trời cho trong rừng.
Ghi con chữ, lớp triền bưng.
Chữ gầy chữ rách, chữ lừng lửng no”.

       Mùa màng dần dà trôi qua, nhiều mục đồng đói chữ theo mùa làm quen với chữ nghĩa. Trên mo cau rừng, người học khắc từng con chữ để tập viết, tập làm văn, ghi lại cảm xúc trước thiên nhiên thơ mộng, những buồn vui của người nghèo khổ và chuyện tình hồn nhiên thơ ngây.

Đôi dòng trên tấm mo cau.
Một trang giấy nhỏ ghi bao nỗi niềm,
Ngày nào xa lắc tiếng chim
Suối trong in bóng hoa sim bên đồi”.  

            Bao trang mo không tựa đề, không tên người, không ngày tháng, đã bị bỏ quên, đã mục rã trên cánh đồng làng quê, nhưng mục đồng  ngày ấy đâu dễ nào quên những con chữ đã khắc sâu vào tâm tưởng.

“Xưa lên đồi cỏ cú.
để hồn theo mây bay.
thả trâu về đồng vắng.
tuổi thơ trôi từng ngày”.

              Con chữ trang mo không ghi lại được âm thanh của tiếng chim, tiếng gió hú, lời Mẹ ru nhưng khi về lại đất cũ, nhìn con chữ khắc đôi lời đồng dao, tất cả như vang vọng trong lòng du tử.

“Ta về hát bài đồng dao cũ
của một thời bắt dế chăn trâu.
mùa bấc thổi lạnh đồi cỏ cú.
và mây chiều lơ lửng về đâu”.

“Ta về hát bài đồng dao cũ
lời mẹ thời ru con trong mưa
cùng giun dế hát ngoài bờ cỏ.
lá tre vàng bay ngang liếp thưa”

           Trang mo cau đầy con chữ rách xước ốm o của nhóm bạn chăn trâu một thuở, đã thành cổ tích, đã vào tịch liêu.

“Đâu rồi một thuở mộng mơ.
Hái hoa bắt bướm mấy bờ lau thưa.
Bầy trâu thả láng bao mùa
Đã thành tích cổ ăn mưa cuối trời”.

           Đó là những kỷ niệm dễ thương khó phai mờ trong trí nhớ ngây thơ mà cậu bé chăn trâu ngày nào đã ghi lại, dĩ nhiên không phải trên tấm mo cau, mà trên trang nhật ký đầy bụi thời gian.

       “Tôi như gặp lại mình rong chơi trên đồi cỏ cú giữa khu rừng vắng, khờ khạo tìm đóa hoa lạ cài lên mái tóc em, người em gái còn ngủ say trong rừng mơ. Bao chiều thả trâu qua đồng sau mùa gặt, ngậm một gốc cỏ cú nghe hương nồng trong mũi mà hồn như trôi theo áng mây cuối trời. Những con trâu ngày nào thả láng thả bưng đã già nua đã thành tro bụi nhưng hình ảnh bạn xưa vẫn như còn đùa nghịch trong trí nhớ. Những trận bóng quyết liệt tại một thửa  ruộng vừa gặt xong còn nồng mùi rạ ướt. Những buổi đá bò, u mọi, đánh trỏng thả diều, những buổi lang thang trong rừng hái nổ hái sim.Hắt hiu một trưa hè. Vi vu một bờ dương liễu. Dìu dặt một đêm mưa.”
.

* Ký tự của đất trời.
          Giữa cuộc đời thầm lặng, du tử có khi gặp một chiếc lá vàng khô ở đâu đó. Một chiếc lá rơi trên đường chiều, nằm trên vỉa hè hoặc trôi theo dòng nước hoặc vương trên mái tóc. Chiếc lá rơi như một nhịp gõ ký ức  Nhặt chiếc lá, đôi khi  du tử nhận ra trên thân lá mỏng manh úa màu hình ảnh một giọt lệ khô.

“Lá vắt kiệt nhớ nhung khô giọt lệ.
thân mỏng manh gầy guộc, sắc hao mòn”.

           Một chiếc lá vàng vương trên mái tóc du tử trên đường qua ngang xóm cũ nhà xưa. Trên thân lá, sương gió chạm một lỗ tròn như chữ O, biểu hiện một ý không . Con đường mang tên người xa lạ, không quen. Nhà xưa đã đổi chủ,không em. Chữ O như một  lời của ai đó đã nhờ gió chuyển cho du tử, thông báo sự vắng không, nhắc nhở bao điều đã qua không còn nữa.                 .

“Con đường qua ngang nhà em
mang tên người xa lạ
một chiếc lá bay vào ký ức đêm”.

“Luân lạc ven trời khoảnh khắc giấc mê
tìm thăm quê cũ gặp chiếc lá mưa ướt.
ta như tưởng lạc lối về”.

            Một cánh hoa, biểu tượng một con chữ, một lời thư, được ép giữa một quyển lưu bút, một tập nhật ký, đôi khi bỏ quên trong một phong thư mờ nhạt địa chỉ. Một chùm ti-gôn, một cánh lưu ly, một bông forget-me-not gợi nhớ bao điều.

“Em ép trang thư đôi cánh hoa.
gửi từ xứ lạnh sương mù xa.
hoa nhắc“đừng quên người yêu nhỏ”.
nhưng người lặng lẽ bỏ quên ta”.

         Một đóa phượng ép giữa đôi tờ giấy bóng của một mùa học xa lắc, đã bạc sắc màu, nhưng nhụy hoa như một con chữ, một dấu hỏi về giấc mơ hoa xưa cũ.

‘Một đóa phượng nằm im trong lưu bút.
sắc màu phai, tàn tạ nét thời gian.
vài cuống nhụy cong khô như dấu hỏi.
giấc mơ hoa lặng chết dưới bụi vàng” ?

Một chiếc lá sen bồng bềnh trên mặt nước hồ. Lá sen khô như tờ giấy dó, trên đó nắng mưa đã nguệch ngoạc những nét thư pháp, những ký họa không rõ ý. Lá sen ấy, được trả lại mặt hồ, nhưng con chữ tự nhiên ấy đã từ đâu đến và sẽ trôi về đâu ? Không ai rõ.

Riêng ông, con chữ ấy như ký tự của đất trời.
.

* Con chữ cũ trong lưu bút.
            Lưu bút là trang viết tay lưu lại bút tích riêng của một người. Bút tích ấy có thể nhìn thấy ở con chữ, dòng văn, nét ký họa; không thể nhìn thấy nhưng có thể nhận ra tình cảm lặng thầm, ý nghĩ riêng tư.Thế nên, lưu bút cũng là lưu dấu, lưu niệm của tháng ngày đã xa xưa đã cũ kỹ, khuất lấp theo cát bụi.

“Những dòng lưu bút bụi vàng khô
nét chữ trang thư mực đã mờ
cánh hoa phượng ép ngày tháng cũ.
lời người heo hút nỗi buồn thu”.

            Trong thời ly loạn,không ai dám chắc sẽ tiếp bước trên đường đời. Học sinh trung học, sau mùa phượng vĩ, nghĩ đến lúc chia ly, dường như ai cũng muốn lưu bút ngày xanh. Trong đó, bạn đồng song tự tay ghi lại bao kỷ niệm dưới mái trường, ghi lại bóng ngày xanh, giấc mơ tuổi trẻ. Thời gian trôi qua, bạn học cũ mỗi người một phương, con chữ ngày nào như bò ngang qua ký ức, gợi biết bao nhớ nhung .

“Con chữ cũ bò qua dòng kẻ nhỏ.               
mờ nhạt theo vệt mực loang chiều mưa.         
gọi nỗi nhớ về ngang miền ký ức.              
áo thư sinh bạc phếch tự bao mùa”.

             Sau năm 1994, thân hữu của ông ở nhiều nơi gửi về ông những trang viết, dòng thư pháp, nét ký họa trước 1975 do chính tay ông ghi vào tập lưu bút của những người bạn xưa, bạn đồng song, đồng nghiệp, đồng hành trong tháng ngày cũ.

“Đã xa vắng đôi bóng hình thơ dại.
tờ thư xưa không ghi trọn niềm vui.
những trang viết phất phơ màu ly biệt.
lời chia tay ước hẹn giữa ngậm ngùi”.

              Rồi một ngày, xa lắc dáng thư sinh, biền biệt bóng người cũ, quạnh quẽ trước bút nghiên, bạc phơ đầu du tử.                         .

Ngày xế bóng lật lại trang đời cũ.
giấy mực đâu lưu mãi nỗi niềm riêng.
người biền biệt chân trời nào viễn xứ.
tôi một đời cô quạnh trước bút nghiên”.

Những trang lưu bút mà thân hữu của ông đã sưu tập và giúp ông in thành sách chỉ là  Con chữ bụi trong nhật ký.
.

* Con chữ bụi trong nhật ký.           
           
Nhật ký là chuyện ghi chép hàng ngày nhưng Đoàn Thuận lại có những dòng nhật ký không ngày tháng chỉ ghi theo sự chuyển dịch của đất trời, những biến động của cuộc sống.

“Có trang nhật ký không ngày.
Trên cánh én mỏng đã bay ngang mùa”.

         
Không rõ khi nao bãi dâu biến thành vụng biển, lòng người đổi trắng thay đen. Con chữ, dòng văn, trang viết đâu ghi kịp phút giây biến hóa hàng ngày. Đâu phải giọt mực hay giọt thời gian mà chính giọt nước mắt, chính tiếng thở dài của con người, của viên cuội, mang đến trang giấy trắng vô tư một ý nghĩa, một tâm hồn.

“Gọt sương rơi ngang thềm.
Chạm hồn trang giấy mờ đêm yên.
Tiếng thở dài viên cuội”.

            Đâu phải con chữ bò ngang dòng kẻ nhỏ mà chính hạt bụi, lăn qua trang giấy, để lại nếp nhăn, nếp suy tưởng, nỗi buồn của đời lữ thứ, của du tử.

“Trang giấy không nét chữ
Hạt bụi lăn qua lúc muộn thu.
Nếp nhăn buồn lữ thứ”.        

             Thật ra, trước 1975, ông có nhiều trang tùy bút xen kẽ giữa những trang văn trong 5 tập Bút Ký Trần Thuận.Những tập bút ký ấy có hai chủ đề chính: Miền đất trọ, Mảng vỡ thời gian. Sau 1975, năm tập bút ký nói trên đã bị Ban Quân Quản tịch thu và đã biến mất từ đó, đã lưu lạc theo gió bụi. Cuộc đời như lạnh nhạt trước trang ngày của ông, như vùi dập con chữ dưới lớp tro bụi, dưới lớp rêu hoang.

“Vài con chữ nằm im thời gian qua.
Và hạt bụi ngủ vùi trong đất cũ
Bên thềm hoang loang lổ sắc rêu nhòa”.

            Lũ bạc ác có thể ném con chữ vào sọt rác, đốt sách vở, treo cổ người viết, nhưng không thể hủy diệt tiếng thở dài của người bần cùng khốn khổ, lời nguyện cầu được sống bình yên.

“Xin người đừng ném con chữ vào sọt rác.
đừng biến trang viết thành giấy vệ sinh
Lửa có thể đốt cháy tất cả, trừ chân lý”.

            Lửa đốt cháy con chữ, khói bay lên , bụi tro rơi rụng. Thời loạn ly khiến kẻ ở người đi nhưng khuôn mặt xưa vẫn còn đó, không phải trên trang tạp bút mà trong tâm tưởng của du tử, cho dù tro bụi phủ lấp con chữ .
khói và tro, từ lửa, đã chia đôi.
tàn đốm thuốc không đủ soi dòng chữ.              .
chỉ bừng lên khuôn mặt thuở xa xô”i.    

            Thật ra, trước 1975, ông có nhiều trang tùy bút xen kẽ giữa những trang văn trong 5 tập Bút Ký Trần văn Thuận. Những tập bút ký ấy có hai chủ đề chính: Miền đất trọ, Mảng vỡ thời gian. Sau 1975, năm tập bút ký nói trên đã bị Ban Quân Quản tịch thu và đã biến mất từ đó, đã lưu lạc theo gió bụi. Cuộc đời như lạnh nhạt trước trang ngày của ông, như vùi dập  con chữ dưới lớp tro bụi, dưới lớp rêu hoang.

“Vài con chữ nằm im thời gian qua.
và hạt bụi ngủ vùi trong đất cũ
bên thềm hoang loang lổ sắc rêu nhò”.    

* Con chữ, mảnh giấy, giọt mực tự nó vô tư. Con đường, mảnh đời, giọt thời gian mang ý nghĩa nhất thời. Tất cả luôn chuyển dịch, sẽ mục rã, nát tan, khuất dần. Chỉ những điều bên ngoài con chữ trang viết, bên kia thời gian, sẽ tồn tại lâu dài trong tâm trí của người yêu quí sự thật.

Thảo Điền, 2014.                                          .
TRẦN CÁT TƯỜNG



.


CON CHỮ BỤI.


Bao mùa bạn vói bút nghiên.
Lưng gầy cõng sách qua miền quê xưa.
Đôi trang giấy phủ bụi thừa.
Lặng yên con chữ buồn chưa thành lời.

Rạch Chiếc, 1962
CÁT SỸ






TRANG THƯ BỤI.


Thời gian phủ bụi trang thư.
Dăm hàng chữ viết mực như mù màu.

Tình thư ngỏ ý ngày nao    
Chỉ còn khoảng lặng đằng sau ngôn từ.
Nhạt nhòa đâu rõ thực hư.
Lâu ngày giấy mực nát nhừ câu văn.

Người đi kẻ ở đôi đằng.
Ghi dòng lưu bút ăn năn tạ từ.
Con tem bưu điện du cư.
Phong bì dấu kín bức thư cuối cùng.

Bên trong con chữ mông lung.
Kê đầu lên giấy lạnh lùng ngủ quên.
Dòng đường dây thép lênh đênh.
Thư trao, người nhận buồn tênh âm thầm.

Bay vào góc khuất bao năm.
Một trang thư lạc, lặng câm, rã rời.
Niềm xưa chữ cũ đôi lời.
Nằm im dưới lớp bụi thời gian trôi.

CÁT SỸ





*




   CON
CHỮ NGÀY CHĂN TRÂU

  Mục đồng đâu phải học trò.
  Que than viết chữ trên mo cau rừng.
 Chăn trâu thả láng thả bưng.
 Ghi lời tiền bối, khắc từng câu thơ.

CÁT SỸ

 

 

 

    TRANG Viết  MO CAU.

Chăn trâu một thuở nhà quê.
Ăn nhờ học lỏm la lê cơ hàn.
Viết, cây chuốt nhọn, que than.
Giấy, mo ép phẳng từ nang cau rừng.

I tờ lớp lá triền bưng.
Thả trâu học ké lừng khừng nhớ quên.
Tờ mo, trang vIẾT không tên.
Từng lằn sọc trắng hằn lên dòng hàng.

Đầu que khắc chữ nằm ngang.
Than đen ghi đậm lên nang mo dày.
Từng con chữ ốm chữ gầy.
Thay lời sông núi cỏ cây ruộng vườn.

Trang mo cau thấm gió sương.
Thấm dòng nước mắt buồn thương dại khờ.
Lời văn ý chữ ngây thơ.
Chìm vào khoảng lặng mù mờ tâm tư.

Tân Lý,1972


 .

CON CHỮ RÁCH

Mặt trang bài soạn lèm nhèm.
Trên lưng con chữ mực lem tư bề.
Sắc huyền ảo nét bút phê.
Dấu than chấm hỏi mô tê rã hàng.

Câu văn chữ nghĩa lan man.
Trang đời đen trắng trái ngang dị thường
Sân trường như chốn giao thương.
Buôn bằng bán chữ, nhiễu nhương đạo trời.

Biết bao con chữ im hơi.
Làm thân phục vụ dưới thời muội mê.
Chữ gầy chữ rách lê thê.
Đôi con chữ đói phết rê dòng buồn.

Khi nghề cao quí xa nguồn.
Giáo khoa sách sử lách luồn đổi thay.
Một con chữ đẹp buông tay.
Tự quyên sinh giữa tháng ngày thanh xuân.

CÁT SỸ





CON CHỮ “ĐAU”


Tờ thư không rõ tháng ngày.
Mờ tên người nhận, mực bay bạc màu.
Chỉ còn thấy một chữ “đau”
giữa lòng trang giấy nát nhàu chung quanh.

Thư nằm trong đám cỏ tranh.
Bên lề đường nhỏ vắng tanh bóng người.
Gần kề một khóm huệ tươi.
Chúm tròn như thể nụ cười hồn nhiên.

Chữ “đau” ẩn nghĩa ảo huyền.
Hay như “đau đớn, buồn phiền, xót xa”.
Đau vì bão tố phong ba.
Ruộng vườn tang tóc, cỏ hoa tiêu điều.

Đau vì dang dở tình yêu.
Thề nguyền ước hẹn đã phiêu du rồi.
Còn chăng nước mắt bồi hồi.
Rơi trên giấy viết với lời biệt ly.

Chữ “đau” riêng lẻ nói gì ?
Khi bao sầu não thầm thì nơi đâu,
Khi thư chẳng đủ một câu.
Im lìm dưới bụi đậm màu lãng quên

 

 

GIẤY LÁ SEN.

Chiếc lá sen khô thay giấy bao.
Ép phơi dưới nắng vàng bạc màu.
Mặt lá nhạt nhòa sắc rêu biếc.
Thân còn non nớt dần xanh xao.

Hàng rong bán dạo, gánh loanh quanh.
Lá làm giấy gói xôi đậu nành,
bao quanh bó rau, xấp trầu tía,
bọc túm thuốc rê, gói trà xanh.

Lá như giấy dó của cụ đồ.
ghi câu đối đỏ nét chữ thô,
khắc dòng thư pháp kiểu Việt Hán,
ký tên lưu dấu buổi dại khờ .

Lá sen từ đầm vào chợ trời
đôi khi theo khách về xa khơi,
lá tròn giữ nguyên gói hàng hóa,
cắt thành trang vở nơi trường đời.

CÁT SỸ








CON CHỮ

TÔI

Con chữ, ký hiệu ngôn ngữ, mang tên chữ cái rời
cùng tôi rong ruổi qua cõi người
đôi khi nằm im trên trang giấy vô nghĩa
đôi khi ghép nên câu trong đầu óc nhỏ nhoi tôi

Chữ i tờ nguệch ngoạc ngang tuổi thơ nghèo đói
vẽ ra vành trăng khuyết ước mơ lơ lửng ven trời
ẩn hiện lờ mờ nơi trí tưởng
một mái nhà yên, một lời ru bên nôi.

Con chữ dẫn dắt thời trai trẻ tôi qua khắp sân trường
qua cảnh hoang vu rừng núi, nơi đô hội phố phường
đánh thức cõi mộng hồn u mê tăm tối
dò dẫm đường về chân lý dù đắng cay đau thương.

Con chữ lắng trong tôi, ngày xế bóng, những lời buồn
trước bao kiếp người nô lệ lầm than
khi bọn độc tài coi phận người như cỏ rác
tước đoạt mọi ước mơ, quyền sống bình an .

Bạo chúa có thể đốt sách, treo cổ người viết
nhưng không thể cầm tù ý nghĩ thoát thai từ cuộc đời
từ lời thở than thầm thì nơi góc khuất lịch sử
từ nỗi niềm riêng thân phận tôi

Gia Định, 1969





tranh của Stojen Milanov


ĐOÀN THUẬN
DẠY HỌC VÀ LÀM THƠ
________________________________
BÌNH SƠN




        Tôi chưa quen Đoàn Thuận nhiều,chỉ mới gặp anh lần đầu vào một chiều cuối thu 1995 tại trụ sở Hội Văn Nghệ Bình Thuận. Anh vội về Hàm Tân triển khai công việc sau một hội nghị ở sở Giáo dục nên không nán lại được, chỉ chuyện trò qua quít. Nhưng đọc La Gi ngàn xanh, tôi cảm thấy quen thân anh rất nhiều. Quen thân thơ và bạn thơ có tâm hồn say đắm thơ như mình.

          Tập “La Gi ngàn xanh” chia làm 6 mảng Huyền thoại Hòn Bà Núi Ông,  La Gi ngàn xanh, Đất Mẹ, Dòng sông quê hương, Quê biển, Đất mới, chứ không theo thời gian sáng tác. Bìa in ảnh biển La Gi. Một cây dương liễu cong cong tỏa cành lá xum xuê; dưới gốc phủ đầy cỏ lau phất phơ nô đùa với nắng gió.  Ngoài biển xa, Hòn Bà như  con rùa xanh bập bềnh trên sóng biếc. Một con sóng bạc đầu cuồn cuộn lô xô vào dải cát trắng. Một khung cảnh biển trời – nắng gió -- núi non – cây cỏ cùng điệp một màu xanh ngắt bao la. Đọc hết tập thơ rồi nhìn lại trang bìa, tôi tự hỏi: Phải chăng đó là cả một tấm lòng, một tình yêu quê hương đậm đà da diết của Đoàn Thuận ?                            .
        Trước hết, anh bày tỏ tâm tình với Mẹ với quê hương:                              .
Tôi đi, nhớ dáng Mẹ gầy.                         .
Tôi về, nghe gió biển đầy tuổi thơ.

          Trong thơ anh, Mẹ không chỉ là người mang nặng đẻ đau, mà còn là tên đất, tên làng, tên núi, tên sông, mà ta có thể bắt gặp trong nhiều câu thơ, đoạn thơ : Dinh Thầy, Bưng Ngang, Rừng Thị Ngọt, Núi Đá, Núi Nhọn, Núi Bể, Núi Đất, núi Mây Tào, Hồ Xanh, Hồ Tôm, Suối Đó, Suối Nước, Suối Sâu, Đá Dựng, Hòn Bà, Sông Dinh, Láng Gòn, Láng Đá, Láng Sim, Bàu Sen, Bàu Tràm, Bàu Sót , Chợ Cá , Làng Chài, Xóm Câu…đã cưu mang mình từ ngày thơ ấu.

       Hình như Đoàn Thuận muốn quyện chặt mỗi mảnh đất chôn nhau cắt rún vào mỗi câu thơ như dòng máu đỏ tỏa ra cơ thể con người thấm qua thịt da rồi chảy về tim, ghi dấu ấn tâm tình,với những:
Lời ru qua những đồi cỏ cú                       .
Cánh diều bay mang tuổi thơ đi                     .          
Những chuyến đò Tân Long Tân Lý                   .
chở nắng vàng phố cát La Gi.

 với những xóm mạc:                           .
Nơi cư trú tâm hồn mộc mạc                       .
Những Láng Gòn Láng Đá Láng Sim                   .   
Những Bàu Sen Bàu Tràm Bàu Sót            .
Nơi đất lành cho những cánh chim.

         Cả những tháng năm phiêu bạt nơi đất khách quê người tận vùng Hà Tiên xa tít, anh vẫn không nguôi nhớ về quê mẹ với nỗi nhớ da diết:
Quê biển mùa trăng những đêm mơ                  .
Sông Dinh trầm mặc giữa đôi bờ                  .
Những mái nhà yên vào giấc ngủ                     .
Mây trắng về đâu trôi lửng lơ.

với những chiều biển vắng:        
La Gi chiều mang mang
Biển làm vỡ trăng vàng
Tan ra  ngàn con sóng
Thành lời ru mơ màng.

Với hình ảnh Hồ Núi Đất hiện lên rất đẹp:
Dù mai đi khắp muôn nơi
Vẫn không quên bóng trăng soi lòng hồ
Không quên tiếng sóng ru bờ
Chùm phong lan nở bất ngờ vào xuân.

         với đêm Hồ Tôm rất nên thơ:
Đêm Hồ Tôm màu trăng loáng bạc
Tưởng mùa xưa còn đọng không gian
Trong biếc liễu hạc về núi cũ
Khúc đàn rơi sâu thẳm xa ng

        Đoàn Thuận là nhà giáo,vừa dạy học vừa làm thơ. Dạy học và làm thơ trong anh như một mối tơ hồng nhuần nhị sắc hương nâng cánh cho nhau bay trên các nẻo đường quê mẹ. Có lẽ vậy mà bóng dáng những em học trò thân thương phảng phất trong thơ anh:                        .
Vầng trán em trang đời đang mở               .     
Chim én về đất nước vào xuân.                        .
Đường phấn kể những mùa lịch sử.                  .
làm ta quên gian khó nhọc nhằn.               
.

    
Cũng do vậy, nhiều hôm ngồi dưới mái trường, anh vẫn nghe biển hát biển ru với đồng nội với hàng dương, vẫn nghe biển gọi trăng theo thuyền về với chợ cá làng chài xóm câu, với các em nhỏ trường làng hát vang dưới rặng hoa phượng vĩ.     .
Một mùa hạ nữa qua mau.                 .
Áo bay trắng lối phượng vào ngày xanh            .                     
Có vầng trăng rụng cuối gành.                .
Ta nghiêng trang viết để dành câu thơ.

         Là nhà giáo yêu quê, yêu trẻ, yêu trường, Đoàn Thuận không những làm thơ về quê hương về trường học mà còn dành những tình cảm cao quí cho nghệ sỹ tài hoa Văn Cao, cho bạn bè Đức An, Hoài Sơn, Quốc Thắng, Văn Mạnh, Yên Thảo
với những vần thơ ý vị:                           .
Mênh mang một ánh lửa chài                    .  
ru con sông ngủ giấc dài về khơi.

Vầng trăng con nước vơi đầy                        .
Đôi bờ vương một bóng ngày sang thu..

Người về phố núi ngày mưa                         .
Ta nghiêng bóng đợi từng trưa từng chiều.

Trăng tàn nghiêng bóng non đêm                      .
Mông lung tiếng vạc sâu thêm bến bờ.

        La Gi ngàn xanh không phải là tập thơ đầu tay của Đoàn Thuận. Trước đó anh đã in tập thơ Mùa bấc biển, Lời chiều, Dưới hoa, và dự định in Lửa đầu non, chưa kể thơ anh được chọn vào những tập thi tuyển quốc gia. Như vậy so với cái tuổi đang độ “tri thiên mệnh”,  sức vóc sáng tác của Đoàn Thuận khá đều đặn, hiếm thấy đối với một nhà giáo vừa dạy học vừa làm thơ.Tôi tin rằng anh mãi mãi nâng niu hồn thơ và để lại cho quê hương, cho bạn bè những bài thơ hay, thật hay.

          BÌNH SƠN




          
tranh của Goxwa Borg


TỰ THUẬT

Trọn một đời tôi dưới mái trường,
Bao mùa phượng thắm để tơ vương.
Thư sinh áo vải buồn xa Mẹ,
Giáo chức trường làng sống với lương.
Sách cổ dăm pho nghiền ngẫm ý,
Lan rừng mấy chậu tự nhiên hương.
Nhà xưa xóm cũ về nương náu.
Một tấc lòng quê trước gió sương.

ĐOÀN THUẬN


Về TRUNG HỌC BÌNH TUY
 

Năm bảy mươi hai có một thầy
Hà Tiên nhiệm sở chuyển về đây.
Trường tư Quảng Đức kèm cours tối.
Công lập Bình Tuy dạy lớp ngày.
Chợ búa bon chen đều chẳng biết,
Đường đời bụi bậm cũng không hay.
Ăn lương chính ngạch ở nhà mướn.
Lặng lẽ an nhiên giữa tháng ngày.

Bình Tuy,10.1972
CÁT SỸ.






TẬP LÀM THƠ.

Làm thơ Đường Luật khó lắm ư.
Hạn vận niêm thanh đối ngẫu từ.
Bố cục, theo khai thừa luận kết.,
Nội dung, hướng thiện mỹ chân như.
Trắc bằng tứ bát nương theo luật,
Ý Nghĩa phân minh tránh ảo hư.
Tôi tập làm thơ, thử viết lách.
Ghi điều nghe thấy lẫn suy tư.

ĐOÀN THUẬN




NGHỈ HƯU

Như hoa nở lụn chuyện muôn phương,
Kẻ sỹ về hưu biệt mái trường.
Ngõ trước đôi khi rêu dại phủ,
Vườn sau lắm lúc cỏ hoang vương
Mai gầy ủ lộc chờ mưa nắng,
Trúc thẳng lên măng đón gió sương.
Phố cũ hè xưa đầy cát bụi
Buồn vui một thuở cõi vô thường.

Tân An,7/2003
ĐOÀN THUẬN


      tranh của John Atkinson Grimshaw


ĐI KÈM TRẺ

1.
Thời thơ ấu, bị buộc đi “kèm chữ.”
Bạn chăn trâu cùng học lớp ven sông.
“Thầy” bé nhỏ hơn những người đi học
mới vừa qua tiểu học bậc vỡ lòng.

Người biết một kèm người chưa biết một.
Bài học đầu ngượng nghịu giọng ê a
Cả lũ khoái cười lăn ra bãi cỏ.
Tôi giật mình xấu hổ bỏ đi xa.

2.
Hơn mười năm, xa quê tìm thầy học.
Con nhà nghèo ở trọ xóm kênh đen.
Ngày đến lớp, tối chiều đi “kèm trẻ”.
Viên phấn cầm trước bảng viết chưa quen.

Học đệ tứ cả gan kèm đệ lục.
Soạn kỹ bài từng buổi làm gia sư.
Cô bé hiền quên mất mình xinh đẹp,
Ngưỡng mộ thầy chăm chỉ học vô tư.

3.
Và như thế, mấy năm trời đại học,
sinh viên nghèo dạy thêm các trường tư,
vào Sư Phạm tu luyện nghề đi dạy,
vì biết mình chưa thoát “phận gia sư ”.

Cô bé hiền ngày xưa, không còn bé,
đến mời thầy kèm cháu tại tư gia.
Các cháu nhỏ say mê học ngoại ngữ.
Tôi tưởng tôi như một “ông đồ già”.

4.
Thời trai trẻ, vì nghèo, đi kèm trẻ.
Hơn nửa đời nhìn lại nẻo đời qua.
Học càng nhiều càng thấy mình còn dốt
Viên cuội tròn lăn mãi trước bao la.

Người học cũ giờ đây về trăm ngả.
Người khốn cùng, kẻ phú quí vinh hoa.
Cuộc đời rộng. ai cũng thầy ta được.
Xin lui về kèm trẻ chính đời ta.

ĐOÀN THUẬN





 BÊN
THỀM ĐẠI HỌC

Một thoáng nắng bên thềm đại học
cũng đủ vàng mái tóc em
một buổi sáng xanh trong mắt biếc
đủ ru ta đôi phút êm đềm.

Chừng như có điều gì e ấp
sách cầm tay mà lòng ở đâu xa
như thời gian hẹn chờ lâu lắm
tà áo mân mê tay nhỏ thật thà

Trời yên gió sân trường thật vắng
và lòng ta yên tĩnh bên em
như rất đủ trong chiều suy nghĩ
em và ta đâu cần nói gì thêm.

riêng tặng Kim Thoa
Đại học Văn Khoa Sài Gòn, 1969
CÁT SỸ






TIẾNG HOA RƠI

Bất chợt mùa về ngang thành phố.
Sân trường áo trắng hồn nhiên vui.
Riêng em áo cũ, màu hoa phượng,
vẫn mắt nai hiền thoáng xa xôi.

Vẫn tóc thơm quen, hương dịu cúc.
Kỷ niệm mùa đi chìm theo lời.
Bàn tay thon nhỏ, trong tay phấn,
chạm xuống hồn tôi tiếng hoa rơi.

Lối trúc hiên rêu nhẹ gót hài.
Dấu mùa sắc cỏ bóng chiều phai.
Tưởng đâu người cũ vời xa mãi.
Nay vào Sư Phạm, nối gót Thầy.

Tặng  quí sinh viên sư phạm
Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, 1965
CÁT SỸ



            tranh của Đỗ Duy Tuấn




RA TRƯỜNG ĐI DẠY

Ra trường đi dạy trong lặng thinh.
Giã từ đèn sách thời thư sinh.
Xuôi về Miền Tây nhận nhiệm sở.
Xa quê, tự lắng tiếng lòng mình.

Tôi nguyện vào đời cùng cộng đồng
học hành tu tập đạo cha ông
Nhân Bản Dân Tộc và Khai Phóng,
Từ nền văn hiến dòng Lạc Hồng

Ngẫm tôi như sậy trước gió sương.
Thân phận mỏng manh lắm đoạn trường.
Dăm con sâu dữ luôn rình rập.
Đôi đóa hoa xinh dịu dàng hương.

Thế thời lùi lại trong bóng đêm.
Nhìn ra ánh sáng soi ngoài thềm.
Dò dẫm tìm về chân thiện mỹ.
Tự dưỡng tâm an, trí tỉnh êm.

Sai Gòn,1969
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]




 
BUỔI SÁNG LÊN LỚP


Đi bên em đôi lần lên lớp dạy.
Áo trắng lay trong gió đầu ngày
Làm nhớ lắm về thời cắp sách
Cuối phố chờ nhau buổi học dài.

Ánh nắng nhuộm vàng trên mái tóc
Ngỡ như lòng lắng một hương hoa
Hương của tóc qua môi dịu ngọt
Của lá thư buồn vui xưa xa.

Cùng bên nhau sớm mai đến lớp

Mà nghĩ đời nhiều nỗi mong manh
Trang bài soạn gửi niềm mong ước
Dân được ấm no, trẻ được học hành.

Làm cô giáo giờ em gầy lắm

Tóc của anh cũng đã điểm sương
Đời mưa nắng có nhau bên cạnh
Đi mãi về sau một con đường.

CÁT SỸ

*
       

ĐI DẠY ở HÀ TIÊN

Ra trường, tôi chuyển đến Hà Tiên.
Cuối trời đất nước biệt một miền.
Kiên Lương Rạch Giá, vùng oanh kích.
Lênh đênh kênh rạch một đêm thuyền.

Hai chiếc va li một cây đàn,
đôi ba quyển sách làm hành trang.
La Gi quê mẹ xa ngàn dặm.
Châu thổ sông dài trời mênh mang.

Đất nước chiến tranh lắm đoạn trường .
Tôi vì cơm áo lại tha phương .
Những mong gửi gắm lòng thương nước
vào đàn em nhỏ của quê hương.

Cứ ngỡ tôi như cụ đồ già,
bụi đường mưa gió tóc sương pha,
bút nghiên khăn gói dăm ba chữ,
về ngồi dạy trẻ miệt vườn xa.

Hà Tiên,1969
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 




ĐẾN TRUNG HỌC HÀ TIÊN.


Con đường Tô Châu rợp bóng dương,
bờ dậu cây xanh lẫn quỳnh hương,
đàn chim se sẻ trên mái ngói,
như đưa tôi đến một sân trường


Cổng vào dưới tán cây phượng già.
Cuối hạ còn vương đôi đóa hoa,
đong đưa cuối nhành lá non biếc.
Làm nhớ trường xưa nơi quê nhà.

Quanh sân huệ trắng từng khóm dài,
như lặng yên nghe tiếng giảng bài
tiếng rơi bụi phấn bên bảng viết.
lời văn âm lạc ra hiên ngoài.

Thư sinh áo trắng chăm học hành
Nghiêng trên sách vở mái đầu xanh.
Ghi nhớ bao điều được giảng dạy.
Lặng tĩnh trầm tư về mộng lành.

Trung học Hà Tiên, tôi đến đây,
trong tình thân thiện của cô thầy,
với dòng văn chương Chiêu Anh Các
Hà Tiên Thập Cảnh thơ mộng này.

Hà Tiên,1969

CÁT SỸ




*




Ở HÀ TIÊN NHỚ LA GI

Bồng bềnh mây qua đảo nhỏ.
Tháng giếng nước biếc chân trời.
Cánh chim mờ vào xa khuất.
Để ta đứng giữa chiều rơi.

La gi xa ngàn dặm lí.
Cuối nơi mây trắng bay về.
Ngút mắt ngóng tìm làng cũ.
Chìm trong khói sóng chiều quê.

La Gi trong ngàn nỗi nhớ.
Hiu hiu gió bấc se lòng.
Tình quê lắng nhiều đêm thức.
Đò chiều nhớ một dòng sông.

Bao chiều chưa về biển cũ.
Hà Tiên những lúc mưa qua.
Rì rào bên Hồ Đông lặng.
Tuởng đêm sóng vỗ quê nhà.

Bao chiều điếng lòng vì nhớ.
Chìm trong tít tắp ngàn dâu.
Chìm trong một vùng biêng biếc.
Nghe như biển cũng buồn rầu.

Hà tiên , 1970
CÁT SỸ
.


.

VỀ LẠI LA GI.

1.

Thôi xin giữ lại mộng đầu
dù bao mưa nắng đã nhầu đôi vai.
Với yêu thương một dòng đầy,
một mùa tuổi nhỏ tháng ngày lênh đênh.

Về xe dốc đổ chênh vênh.
Dưới xa biển biếc, hai bên rừng già.
Biển mênh mông, một Hòn Bà.
Mờ trong chiều xuống, núi Tà Cú xanh.
Vườn ai sợi khói mong manh.
Hiu hiu bấc biển thổi quanh phố phường.

Tôi đi kiếm sống tha phương.
Hành trang sách vở, gió sương đầy hồn.
Tôi về lòng dạ héo hon,
Hàng bằng lăng tím dài con Sông Kiều.

2.
Về đây trong lũng mây chiều.
Mưa rơi thôn lẻ ít nhiều bâng khuâng,
Suối trôi trong dáng ngại ngần.
Người đi để nhớ đôi lần trong mơ.

Bãi hoang với cát lưng bờ.
Dấu chân chim đã mịt mờ lối xưa.
Một đời tôi những nắng mưa.
Lời ca dao cũ đong đưa phố sầu.

Tôi về ngã nón qua cầu.
Nhớ trang thư cũ những câu tạ từ.
Có gì đâu một mùa thu,
Ngày thơ ấu đó cũng mù xa thôi.

3.
Giờ tôi Xóm Nhỏ bồi hồi,
nghe hoàng hôn rụng cuối trời lặng thinh.

La Gi, 1972
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]








VỀ LA GI DẠY HỌC.

Xa Mẹ từ nhỏ, sống tha phương.
Đi học đi dạy tại nhiều trường.
Từ giã Hà Tiên về quê cũ.
Thầm lặng buồn vui ngày hồi hương.

Bao mùa lưu lạc sầu lê thê,
ước momg Đất Tổ được quay về,
dù ở làng chài hay xóm ruộng,
dù phải đối diện với não nề.

Ngày tôi thuyên chuyển về La Gi
Dạy Trường Công lập tỉnh Bình Tuy,
Trường tư Vinh Tân, Trường Quảng Đức.
Gặp lại bao người từng chia ly.

Đất xưa hội ngộ nhóm Tứ La,
thân hữu chăn trâu thời tuổi hoa,
cùng nhau tìm hiểu về nguồn cội
Huyền thoại Dinh Ông với Đảo Bà.

Về bên ba má bên mẹ già,
thân bằng quyến thuộc nơi quê nhà,
cùng gia đình nhỏ sống êm ấm,
Giấc mơ thơ dại như nở hoa.

La Gi, 1973
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 

VỀ TRUNG HỌC BÌNH TUY

Bao mùa lưu lạc chia ly,
tôi về Trung học Bình Tuy quê nhà.
Hàng dương liễu biếc thướt tha.
Đôi nhành phượng vĩ đỏ hoa học đường

Ngỡ như hương cũ còn vương.
Trường làng mái ngói, nền tường đá xanh.
Nhớ xưa mơ được học hành.
Nay cùng đồng nghiệp đồng hành đồng song.

Tha phương khốn khó long đong,
hồi hương sống lại thuở hồng hoa niên.
Thư sinh áo trắng hồn nhiên
giúp tôi ôn chuyện bút nghiên một thời.

Bao trang vở chép mộng đời
Đôi dòng phấn trắng kể lời tổ tông.
Với nền giáo dục Cộng đồng,
Nhân bản Dân tộc Lạc Hồng nghìn năm.

Bình Tuy trung học lặng thầm
đã từng gieo hạt ươm mầm trong tôi.

Bình Tuy, 19



*

 

 

 

COURS PASCAL.

Pascal, lớp học tráng niên,
Trường tư Quảng Đức, cõi thiền từ bi.
Giúp nhau ôn tập luyện thi.
Ước mong quê mẹ La Gi an bình.

ĐOÀN THUẬN

 

LỚP LÁ.

Tìm thăm lớp lá mục đồng.
Bên rừng dầu vắng, ven sông lở bồi.
Nhớ câu lục bát xa xôi.
Lời ca dao cũ một thời tản cư.

ĐOÀN THUẬN



 

TRƯỜNG LÁNG GĂNG

Láng Găng về lại một ngày.
Trường làng lớp cũ vắng thầy cô xưa.
Đôi nhành dương liễu dưới mưa.
Trong tôi như thể đong đưa giọt buồn.

ĐOÀN THUẬN




TRANG VỞ CŨ


Một trang vở thuở đầu đời,
Nằm yên dưới lớp bụi thời gian qua.
Bỗng dưng một buổi chiều tà.
Hồn văn bóng chữ gọi xa lắc về.

ĐOÀN THUẬN




HƯƠNG XƯA


Một mùa phượng vĩ nào xưa,
Mênh mang hương dịu dưới mưa chiều tà.
Ta thầm nhớ mái trường xa,
Thầy Cô bạn học đường hoa hạ tàn.

ĐOÀN THUẬN





*




TRƯỜNG
MẪU GIÁO TRÍ ANH

Xây một ngôi trường cho con chúng ta
ngôi trường mẫu giáo
khang trang trong nắng mai
đỏ tươi màu ngói
như hạt giống tương lai.

Như ở đó
còn những bàn tay
của bao con người
chắt chiu ước vọng
qua từng tháng ngày.

Như ở đó
bao giọt mồ hôi
bạc vai áo thợ
thấm lên núi rừng
thấm lên nương rẫy
mặn thêm biển xanh.

Và ở đó
có cô giáo trẻ
như người mẹ hiền
có đàn em bé
hát vang sân trường.

Ngôi trường ngói đỏ
như đoá hoa hồng
giữa đời thắm tươi
ôi, quê hương ơi
xin dâng lên người.

La Gi, 1972
CÁT SỸ


 



TRƯỜNG LA DẠ 


Dưới mái Trường La Dạ,
Ban đồng song, đồng hành, 
ghi lưu bút ngày xanh
khi hạ tàn tạm biệt.

Một lần nhớ mải miết,
dù bút ký không dài,
dù màu mực dần phai,
vẫn còn trang ký ức.

Vẫn nằm trong tâm thức,
của người đã xa trường,
đã phiêu bạt  tha hương,
lưu dấu bao kỷ niệm.

Khoảnh khắc chân trời tím,
tưởng nhớ về dáng hoa,
hiền dịu trong chiều tà,
trên sân trường Xóm Núi.

Tiếng chim rừng bên suối,
hòa âm lời giảng bài,
theo gió rừng thu phai,
một thời Trường La Dạ.

La Gi,1973
CÁT SỸ

*








HẠ TÀN
tặng Võ Ngọc Sơn

Phố ngoài, đường phượng chia đôi.
Sân rêu lớp cũ để rơi giọt chiều.
Những trang sách đã cô liêu.
Chợt nghe trong trúc hiu hiu hạ tàn.

Chưa qua, chiều đã trăng vàng
Sương giăng mờ những dặm ngàn thôn xa.
Thời gian đi qua đi qua.
Rụng rơi từng cánh phượng và tuổi xuân
.




TRĂNG TRÊN GIÁO ÁN


1.
Một mảnh trăng treo ngoài song cửa.
Yên ả không gian ngát hương đêm.
Trăng thanh bình tỏa trang giáo án.
Trăng với thơ xưa gợi nỗi niềm.

2.
Có phải ánh trăng ngoài ngục tối.
Len qua khe cửa ngắm nhà thơ.
Hồn thơ như gởi theo trăng sáng.
Lan tỏa muôn phương trời tự do.

Có phải ánh trăng trên sóng nước.
Sáng một dòng xuân một trời xuân.
Nhà thơ vẫn thức bàn việc nước.
Nghĩ đến muôn dân giữa thuyền trăng


Có phải ánh trăng trên đồi núi
đã vào cửa sổ để đòi thơ ?
Nhà thơ khuya ấy đâu hờ hững.
Nhưng chuyện non sông đang đợi chờ.

Có phải ánh trăng đêm rừng vắng
lắng tiếng suối trong, bóng lồng hoa ?
Nhà thơ chưa ngủ đêm khuya khoắt
vì nỗi lo chung, nỗi nước nhà.

Biết bao đêm nữa người không ngủ.
Suốt những canh thâu đợi ánh ngày.
Năm châu bốn biển, đầu điểm bạc
vì nước thương dân, lo ngày mai.

3.
Trăng xưa hạc cũ vẫn còn đây.
Đất nước yên vui với xuân này.
Đêm nay lòng tưởng Người thanh thản
viết tiếp trang thơ ánh trăng đầy.

       
Trường Dục Thanh, 1975
           ĐOÀN THUẬN








HẠ CUỐI
tặng Giáo Hiệu


Khi ngày hạ đã cuối mùa.
Đường về xóm học chợt thưa bóng người.
Ánh đèn trọ tắt đêm vui.
Mấy khung cửa khép, tiếng cười lặng yên.


Hoa tàn hoa nở một miền.
Ai quên ai nhớ bao phiền muộn kia.
Bờ vui bến lạ đã chia.
Người về xa khuất, người khuya khoắt buồn


La Gi, 1975
CÁT SỸ

 

 



SÂN TRƯỜNG MÙA HẠ

Người về xóm học đã thưa.
Những trang vở khép vào xưa cũ dần.
Hàng dương liễu đứng bâng khuâng.
Tiễn mùa sang hạ, mưa ngần ngại bay

Bước chân gõ guốc phố này,
Áo em trắng những tháng ngày thư sinh.
Sân trường giờ lại vắng thinh.
Thềm ngoài lớp học, rêu in sắc chiều.

Thuyền xa, bờ chợt cô liêu,
Đàn chim bay khuất, quạnh hiu núi đồi.
Nghỉ hè, em lại xa xôi,
Mình ta giữa cõi muôn lời cổ thi.

Lá thu xanh gọi mùa đi,
Ngoài ô cửa lớp mùa thi qua rồi.
Đường về xóm học chia đôi.
Vắng em bụi phủ chỗ ngồi lặng yên.

Những chiều ru gió sau hiên,
Tưởng em ngồi học một miền quê xa.
Mong ngày hạ trắng mau qua,
Em về bước nhỏ lối hoa mộng này.

Trường Nguyễn Huệ,,Lagi 2003
ĐOÀN THUẬN

 

*

 

TỰ SỰ


Từ biệt “mái xưa”  buổi thiếu thời.
Dưới hoa” mấy nẻo “đất và người”.
Sau “mùa bấc biển”, “dấu xưa” khuất,
Trước “lửa đầu non”, “sắc phượng” rơi.
Khoảng lặng của hoa”, “mùa thạch thảo”.
Lời chiều” dưới “tượng”, “tạ ơn đời”.
Rong chơi cát bụi” cùng “đời sậy”.
Mộng “lửa đêm mưa” ở cuối trời.

ĐOÀN THUẬN



TỰ TRÀO

1.
Lỡ thầy lỡ thợ hay lần khân,
Lúc tỉnh khi say đâu một lần.
Dạy học quanh mùa không đủ chữ,
Phụ hồ đôi lúc chẳng nên thân.
Buồn tình tạc tượng chơi, vài bức,
Hứng chí làm thơ thử, mấy vần.
Ít bạn, nhiều hoa, giàu gió cát
Đi về quanh quẩn một vuông sân.


2.
Khổ cực chân quê, xấu lạ thường.
Nửa đời bầm dập, sống tha phương.
Chăn trâu ở mướn thời thơ ấu,
Dạy học làm thuê buổi thị trường.
Chẳng biết cúi luồn, nhiều kẻ ghét,
Không quen nịnh bợ, ít người thương,
May sao cũng có gia đình nhỏ,
Đỡ tủi thân nghèo, bớt gió sương.

ĐOÀN THUẬN



TỰ CẢM

Cây cỏ theo mùa tự nở tàn,
Hương trời mấy cõi vẫn mênh mang.
Người đi núp bóng nơi quyền thế,
Kẻ đến tìm vui chốn mộng vàng.
Chân tín giữa đời nuôi trí sáng,
Nghĩa nhân muôn thuở dưỡng tâm nhàn.
Dù cho trái đất đầy dông bão,
Gia đạo ngàn xưa chẳng xoá tan.


 

.

TỰ BẠCH

Khách lạ ngờ ta sống khác thường,
Về hưu lẳng lặng giữa quê hương.
Đôi lần khẩn thiết ra ngoài phố,
Suốt tháng an nhiên ở góc vườn.
Tạc tượng ghi sâu tình cố quận,
Trồng hoa ôn lại thú văn chương.
Thăng trầm cơm áo đầu mau bạc,
Chẳng bạc lòng son, chẳng khác thường.

Tân An, 2003
ĐOÀN THUẬN




 

 TỰ NGHĨ

Rất yêu trẻ, tôi làm người dạy học
để được gần, được sống với tuổi thơ
vì điều ấy, suốt đời tự hỏi
đã yêu thơ yêu trẻ từ bao giờ.

Nhiều người sợ một nghề bạc bẽo
bởi người thầy như kẻ đưa đò
tôi lại sợ chính mình yếu kém
chẳng làm gì giúp ích em thơ..

Đã bao năm nhiều lần lên lớp dạy
vẫn thấy mình còn lắm vụng về
chưa nói được những điều muốn nói
nên trở về buồn lặng trong mê.

Cũng có lúc muốn đi tứ xứ
để học thêm nhiều ít ở cuộc đời
nhưng mắt trẻ cứ kéo tôi về lớp
tiếng học bài như sóng vỗ trong tôi

Tóc sớm bạc không do nghề đạm bạc
mà do ta chưa hiểu hết lời thơ
của ai đó từ ngàn năm trước
như vầng trăng lúc tỏ lúc mờ.

Cứ như thế qua bao mùa học
tôi nghĩ mình đang tuổi đến trường
e ngại trước bao trang bài soạn
và lòng như có mối tơ vương.

ĐOÀN THUẬN




KHÔNG LỜI

Trường xưa đổi hiệu thay đời.
Bảng đen phấn trắng không lời biệt ly.
Bút nghiên một thuở xuân thì
Nay như bụi phủ đóa quì tàn phai.

La Gi, 1975
ĐOÀN THUẬN



     tranh của Nguyễn Thanh Bình




LỐI BÍCH CÂU

Người qua cầu mùa thu.
Lá rơi đầu nguồn bíếc.
Mấy độ tà dương biệt.

Lều cây muôn năm trước
Xuân nữa quay bước về
Hoa cỏ đầy bến mê.

Lời quên trong hạt bụi.
Thức giấc dưới ánh chiều
Lối trúc vào quạnh hiu.

ĐOÀN THUẬN





BẾN ĐÒ VẮNG

Không ánh lửa chài trên sông.
Không cây đa bến cũ.
Tiếng gọi đò xưa lẫn khuất mênh mông.

Khách qua đò đâu còn ai trở lại.
Một dòng xanh cùng mây trắng tự trôi.
Những cánh bèo lang mang xa khơi.

       
Bến đò Sáu Say, 1976
          CÁT SỸ



NGÂY NGÔ


Đôi khi ta muốn tìm một đệ tử.                  
Theo kiểu cụ đồ xưa .                        
Để truyền dăm ba chữ                        
Dạy một thế võ                      
Dặn đôi điều nắng mưa.
                         .

Nhưng nhịp đời không cùng nhịp trái tim .          
Một đô la có lắm người xu phụ.
                       

Ta về gõ cửa đền đài mơ ước                    
Tự biết mình ngây ngô.

La Gi,1976
ĐOÀN THUẬN
.
 


MỘT HÀN SỸ

Một hàn sỹ nhặt chiều tà
ẩn trong xóm vắng, đường hoa cúc vàng,
sau lưng bỏ dại bờ hoang

Trường xưa xóm học xa ngàn.
Xuân thu mấy độ bàng hoàng giấc mơ.
Sương trời ủ dột lời thơ.

Tân An, 2003
ĐOÀN THUẬN

 







“ LỜI RU LỤC BÁT “



tranh của Pino Daeni.





ĐOÀN THUẬN

lời ru lục bát
___________________________________

TRẦN PHƯƠNG NHƯ

       

          Huyện phố Hàm Tân nằm gần vùng biển nhỏ quê hương miền Nam Trung Bộ, với đủ 
biển sóng, dương liễu, lau lách thuyền sông, đồi non cồn cát, dốc núi sương mù
dặm ngàn thôn xa, phố huyện sân rêu, đàn chim di rét. Giữa khung trời tĩnh lặng ấy, Đoàn Thuận
sinh trưởng, vào đời, và nhà thơ cất lên những điệu ru ca đằm thắm nhất.                   
         Quả thật Lời Chiều chính là những lời ru dịu ngọt, làn điệu lục bát trữ tinh của ngàn đời
đất mẹ. Đoàn Thuận biến đời ông thành chiếc võng, và ông đã ru (Như từng được Mẹ ru thuở
thiếu thời) ru mây, hoa cỏ, sương, đồi, đêm, chiều. Đáp lại sông, biển, đời cũng ru ông miệt mài.
         Thơ Đoàn Thuận qua Lời chiều, cho thấy một niềm yêu thương quê nhà dạt dào, vùng
đất mỗi con sông, mỗi làn hương đều kết dính bền bĩ vào tâm hồn nhà thơ. Trong những bước
chân đi  .Nắng mưa làm mỏi bước đời hẳn có lúc Đoàn Thuận cũng ngại ngùng.
Ông không chỉ dặn lòng, ông gọi người:
Xin người hãy chậm chân chiều.       

            Ở nhà thơ cái gì cũng thong thả như thế. Sự thong thả khiến ta dễ liên tưởng về một thời gian đã qua, một không gian đã mất, với bóng dáng Đường Thi, những nàng thương nữ những bác hoàng hạc, những động đào nguyên:          
Ngập ngưng một bước trần ai,                
Người xưa chốn cũ đã ngoai thới gian. 
                               

        Tuổi thơ và tình yêu trong Lới Chiều, chỉ le lói ít lần. Phải chăng  Đoàn Thuận quay mặt cùng nó ? Chưa hẳn ! Hãy nghe ông ví von:                        
Ta teo hạt bụi vào đời,                            

Đã thành viên cuội một thời trẻ thơ. 
               

        Thật ngộ nghỉnh và không kém thâm trầm. Tình yêu thì qua hình ảnh mềm mại             

Phố quen chợt rụng lá vàng,                             

Một người nghiêng nón bên hàng dương xa
                                
        Cũng có lúc Đoàn Thuận vẽ lên cảnh chia lìa. Chẳng thở than, chỉ nghe len vào hồn những âm vang rất nhẹ: Trong mưa lẫn giọt mắt buồn tiễn đưa.

       Những dòng lục bát, lời ru chiều của Đoàn Thuận, sau cùng là hơi thở của vùng quê hương dịu dàng, tắm đẫm ngôn ngữ và đời ông. Ông viết nên, hãy thôi, cứ gọi đấy là những tiếng hót của một loài chim:                  
Có con chim lẫn phố mây,                    
Để rơi tiếng hót xuống đầy hoàng hôn.

                 TRẦN PHƯƠNG NHƯ

 


GỬI MẸ và EM

Bốn câu lục bát xa xôi.
Gửi Mẹ khúc hát một thời ru con.
Gửi vầng trăng phía sau non
Lá dương liễu rụng lối mòn về Em.

ĐOÀN THUẬN



CÂU LỤC BÁT 

Người đi đãi cát tìm vàng.
Ta còn mê mải về ngàn rong chơi.
Qua con suối vắng tìm lời,
Gieo câu lục bát vào nơi lặng thầm.

ĐOÀN THUẬN



ĐIỆU LAM THÔN

Câu hò lục bát chơi vơi.
Lam thôn nước nổi, chim trời reo ca.
Sắc thanh âm điệu quê nhà.
Đưa ta vào dưới bóng hoa bồi hồi..

ĐOÀN THUẬN



TIẾNG SÁO DIỀU

Nhớ hoài một tiếng sáo diều.
Hiu hiu lời Mẹ ru chiều buồn trôi.
Xa rồi một thuở thôi nôi.
Vẫn âm lục bát bồi hồi trong ta.

ĐOÀN THUẬN



THU VỀ NHỚ MẸ

Cây thu trả lại thu vàng
Mẹ vào cõi hạc phía ngàn biếc xa.
Con theo bóng những mùa hoa.
Hát rong nỗi nhớ buồn qua đôi miền.

ĐOÀN THUẬN



*


RU CHIỀU

Ở đâu lục bát nhớ người.
Lắt lay khúc hát à ơi ru chiều.
Ru ta vào cõi quạnh hiu.
Ru hương tóc cũ ít nhiều vắng xa.

ĐOÀN THUẬN



RU ĐÊM

Ở đâu lục bát ru đêm.
À ơi, một bóng trăng thềm đong đưa.
Ru ai tình lặng vào xưa.
Ru sương đêm giọt lưa thưa hiên ngoài.

ĐOÀN THUẬN





RU CON

Sông xa ru giấc mộng đầy.
Và đêm lạnh thả sương bay về trời.
Con ơi, hãy ngủ đi thôi.
Xin người đừng để buồn trôi theo lời.

ĐOÀN THUẬN




BÊN KIA LỜI RU

Sương ru hoa hạt long lanh.
Biển ru thuyền sóng chòng chành về khơi.
Người ru nhau một đôi lời,
Tháng năm ru cát bụi dời về đâu.

ĐOÀN THUẬN




*


GIỌT ĐÀN BẦU

Cung trầm từng khoản nhạc êm.
Bay qua đồng lúa ru đêm xóm làng.
Lam thôn điệu cổ dân gian.
Câu hò lục bát, giọt đàn bầu xưa.

ĐOÀN THUẬN




TIẾNG CHIM

Có con chim lẫn phố mây
Để rơi tiếng hót xuống đầy hoàng hôn.
Như rơi yên tĩnh vào hồn
Như hương xưa thấm vào ngôn ngữ chiều.

ĐOÀN THUẬN




TƠ VÀNG

Khi người bẻ nửa vần thơ.
Ta về ném hết vào bờ thời gian.
Bao đêm thức dưới trăng làng.
Thương con tằm nhả tơ vàng bến ngâu.

ĐOÀN THUẬN



CÂU HÁT DẶM

Đôi câu hát dặm dân gian
Lời ru sông núi, cung đàn lam thôn.
Dư âm len nhẹ vào hồn.
Như sương đêm giọt xuống cồn rêu xanh.

ĐOÀN THUẬN



LỜI THƠ KIỀU

Đọc Kiều, trang sách Tố Như.
Ta nghe “đau đớn lòng” từ câu thơ.
Từ “điều trông thấy” đôi bờ.
Cùng niềm khao khát giấc mơ yên lành.

ĐOÀN THUẬN




THƯ PHAI

Trang thư dòng chữ mực màu.
Mùa pha trắng giấy, bụi nhàu vàng phai.
Lời xưa ý cũ ngắn dài.
Vẫn trong tâm thức dù ngày tháng trôi.

ĐOÀN THUẬN




CÂU THƠ ĐỂ DÀNH

Một mùa học nữa qua mau.
Áo bay trắng lối phượng vào ngày xanh.
Có vầng trăng rụng cuối gành.
Ta nghiêng trang viết để dành câu thơ.

La Gi,1994
ĐOÀN THUẬN





*


CUNG TRẦM

Cung trầm từng khoản nhạc êm.
Bay qua đồng lúa ru đêm xóm làng.
Lam thôn điệu cổ dân gian.
Câu hò lục bát, giọt đàn bầu xưa

ĐOÀN THUẬN





NỐT TRẦM

Hương thời gian ủ trong hoa.
Tiếng chuông chùa vọng chiều qua chân trời.
Nốt trầm trong giọt mưa rơi.
Tan vào hạt mặn thành lời biển xanh.

ĐOÀN THUẬN



ÂM XA

Ngập ngừng nhẹ bước đường đời.
Thầm nghe xa tiếng chim trời líu lo.
Bến xưa dù vắng con đò.
Vẫn còn êm dịu điệu hò lam thôn.


ĐOÀN THUẬN




ÂM THỪA

Hạt buồn nhuận thấm hồn đời.
Âm thừa giọt lệ không lời chia ly.
Ta theo cát bụi ra đi.
Người về nuối mộng xuân thì một mai.

ĐOÀN THUẬN



QUẠNH HIU

Hơi mây hư ảo hiên trời
Chợt buông theo tiếng hoa rơi xuống chiều.
Âm thừa chạm đáy cô liêu.
Tưởng đâu hạt lệ khô nhiều tháng năm

Thủ Đức, 2008
ĐOÀN THUẬN



*



HẠ XƯA

Bao mùa hạ đã đi qua.
Cũng qua đi những tuổi hoa mộng rồi.
Ta gom góp nhớ một thời.
Để hoa phượng thản nhiên rơi đường chiều.

Sài Gòn, 1964
CÁT SỸ



PHƯỢNG CŨ

Khi về nhặt cánh phượng buồn.
Nghe mưa tạt ướt nẻo đường về xa.
Tàn lâu rồi những mùa hoa.
Của em áo trắng, của ta dại khờ.

ĐOÀN THUẬN




BÓNG XUÂN THU.

Nơi nào còn một đào tiên ?
Một Đông Phương Sóc, một miền lãng du ?
Tôi về làm một người ngu.
Hát ngao dưới bóng xuân thu quê nhà.

ĐOÀN THUẬN




*


MỘT CHIỀU MƯA.

Đò ngang bến đổ chiều mưa.
Không lời ly biệt người xua xa mờ.
Ta về nghiêng nón đợi chờ.
Mưa buồn rơi lạnh xuống bờ thùy dương.

ĐOÀN THUẬN



MƯA XA

Ai ngồi hát cuối phố mưa
Nghe xa như điệu ru xưa không lời
Điều gì lẫn quất trong đời
Thầm thì như hạt bụi thời bỏ quên.

ĐOÀN THUẬN




MƯA PHÙN

Mưa phùn phơ phất ngang hoa.
Làn hương dịu lắng vào xa núi rừng.
Hơi xuân buông thả dửng dưng.
Cùng mây sương khói ngập ngừng dưới thung

ĐOÀN THUẬN




MƯA XUÂN

Mưa xuân mang bụi nước mây.
Lưa thưa sợi mỏng nhẹ bay ngang đời.
Từ mùa đông giá sương phơi.
Dư âm hoa mộng tiếng rơi giọt trầm.

ĐOÀN THUẬN



LÁ MƯA ƯỚT

Mưa rào ướt lá vàng khô.
Đầm đìa lướt thướt như mờ lệ rơi.
Đã xa nhành cội đọt chồi.
Nay tràn lũ quét lá rời đất xưa.

ĐOÀN THUẬN




DƯỚI MƯA

Có người lầm lủi trong mưa
Nhặt dăm cánh phượng rơi thưa phương này.
Hương mùa theo chiếc lá bay
Phương kia cuối nhặt dấu giày rêu phong

ĐOÀN THUẬN





ĐỤT MƯA

Đụt mưa chiều dưới hàng cây.
Làm ta chợt nhớ một ngày xa em.
Xin trời đừng đổ mưa thêm.
Giọt xưa đã thấm ướt mèm trong nhau.

ĐOÀN THUẬN




*



SƯƠNG MAI

Bấc mang rét lạnh đông về.
Bóng hoàng hoa nắng thu hề đã phai.
Giọt hương ướp trắng sương mai.
Thấm vào hồn đá hình hài cỏ cây.

ĐOÀN THUẬN




MỘT GIỌT SƯƠNG

Sương đêm ngoài cửa âm thầm.
Giọt từng giọt lạnh vào tâm hồn buồn.
Đôi điều mong muốn bỏ buông.
Vẫn còn thấm ướt lệ nguồn mây mưa.

ĐOÀN THUẬN




NHƯ SƯƠNG

Phụ ta sao người lại buồn.
Ảo mờ phố huyện, lạnh nguồn mây giăng.
Người ơi, xin chớ băn khoăn.
Chút tơ vương cũ cầm bằng như sương.

ĐOÀN THUẬN



SƯƠNG MÙ

Sương mù theo gió chơi vơi.
Vấn vương liễu rũ thầm rơi hạt buồn.
Giã từ hơi nước mây nguồn.
Giá băng đọng giọt lệ buông xuống đời.

ĐOÀN THUẬN



*



CÕI BỤI

Giọt mồ hôi thấm cõi người.
Thấy trong khô khát nụ cười hồn nhiên.
Đâu cát bụi, đâu nhân duyên,
Đâu đào nguyên cũ cho thuyền về xưa.

ĐOÀN THUẬN




MỘT HẠT BỤI


Gió đưa một hạt bụi khô.
Rơi trên trang giấy hàng ô lu mờ.
Lăn theo kẻ tóc đường tơ.
Trắng pha con chữ, lặng lờ thanh âm.

ĐOÀN THUẬN




NHƯ BỤI

Buông theo cánh gió phiêu diêu.
Ru vào quên lãng bao điều tiếc thương.
Tịnh yên qua những đêm trường.
Ngỡ ta như bụi gió sương nhuận trầm

ĐOÀN THUẬN




VIÊN CUỘI

Ta theo hạt bụi vào đời,
Đã thành viên cuội một thời trẻ thơ.
Giật mình giữa những đêm mơ.
Sóng yên nhiên vỗ suốt bờ dâu xanh.

ĐOÀN THUẬN



*


CHIỀU MỜ

Sau mưa liễu rũ lơ thơ.
Chiều phai nắng nhạt sương mơ bốn bề.
Gió lùa ngọn lúa đồng quê.
Con thuyền gác mái bến mê mơ màng.

ĐOÀN THUẬN





CHIỀU BÊN NƯƠNG

Nghe trong luống cải nương chiều,
Thoảng hương đất mới giữa hiu quạnh mùa.
Thoáng buồn sắc tím hoa mua,
Thoáng xa lắc tiếng chuông chùa núi xa.

ĐOÀN THUẬN





CHIỀU YÊN

Chiều phai nắng lạnh dòng sông
Con thuyền gác mái bềnh bồng nhẹ trôi.
Đàn chim về tổ qua đồi.
Sao mờ tịnh lắng khúc nôi niệm trầm.

ĐOÀN THUẬN

 


KHI CHƯA HOÀNG HÔN

Chưa hoàng hôn đã trăng lên.
Chưa nhớ chi mấy đã quên lãng nhiều.
Chưa hoa, hương đã về chiều.
Chưa xa, đã thấy đìu hiu lối về.

ĐOÀN THUẬN





NGÀY TÀN

Ngày tàn nắng đổ bên non.
Chiều trôi bóng ảo ăn mòn lũng hoang.
Chim bay về tổ từng đàn.
Dư âm tiếng hót mơ màng vào đêm.

ĐOÀN THUẬN




MỘT NGÀY QUA.

Hừng đông trời tỏa ánh hồng.
Trưa đưa ngày vượt bầu không qua chiều.
Đôi bờ cỏ dưới nắng thiêu.
Hoa sầu lá muộn cây xiêu bóng tà.

ĐOÀN THUẬN





 *



LUỐNG CỎ TRANH

Cỏ tranh lấp một lối mòn.
Quanh co theo suối về non cuối rừng.
Nước lùa cát đất ra bưng.
Chỉ còn sỏi đá dựa lưng mưa nguồn.

ĐOÀN THUẬN



GIỮA CỎ CÂY

Người còn điều nhớ để quên.
Ta khờ khạo giữa buồn tênh tháng ngày.
Lời chiều ru bóng cỏ cây.
Mưa rơi nước lạnh, sông đầy hoa trôi.

ĐOÀN THUẬN





HƯƠNG TRÀM

Cây vông thắp lửa cuối chiều.
Ta qua phà Bắc nhớ nhiều kênh Nam.
Ai ngồi giặt áo bên vàm.
Tóc mây thả hết hương tràm một mai.

ĐOÀN THUẬN




SẮC MÀU

Theo mùa sầu muộn trôi qua.
Hoa tàn hương nhạt, chiều tà đêm sang.
Xuân hồng đông xám thu vàng.
Sắc màu hoài niệm cùng làn sương bay.

ĐOÀN THUẬN



|
NẮNG MƯA

Nắng mưa ấp ủ mộng đời.
Sông xanh nước ngọt mưa rơi trên nguồn.
Nương mùa vạn hữu âm dương.
Ngày lên nắng ấm phai sương đêm trường.

ĐOÀN THUẬN



CÒN MẤT

Mùa màng nương rẫy ruộng vườn.
Theo thời mưa nắng gió sương mất còn.
Nắng hanh hạn hán héo hon.
Mưa dầm bão lũ xói mòn núi sông.

ĐOÀN THUẬN




*


BƯỚC ĐÊM

Xin đêm yên tĩnh thật đầy.
Cho trăng xô những bóng cây ngã dài.
Và ta nghe bước chân ai
Gõ buồn qua ký ức ngày đã yên.

ĐOÀN THUẬN




ĐÊM PHI TRƯỜNG

Người đi về cõi tha phương.
Đêm phi trường lạnh mưa buồn sân ga.
Tình đời sum hợp tan xa.
Cầm bằng như cánh hạc qua chiều vàng.

ĐOÀN THUẬN

 


ĐÊM ĐỒNG BẰNG

Sương đêm xuống lạnh mơ hồ.
Cánh đồng yên ngủ bên bờ sông xa.
Lời người, một thoáng mưa qua.
Chìm trong từng hạt phù sa lắng buồn.

ĐOÀN THUẬN




ĐÊM ĐÔNG

Đêm đông lạnh giá mù sương.
Từ xa vang vọng tiếng chuông nhà thờ.
Sông dài vắng lặng đôi bờ.
Đôi nhành nguyệt quế cạnh tơ liễu buồn.

ĐOÀN THUẬN




ĐÊM LẠNH

Điều gì mất ở xa kia
Để mẩu thuốc tắt đêm chia xa người.
Lạnh đêm sương tỏa nơi nơi.
Thèm một đốm lửa ấm môi cười buồn.

ĐOÀN THUẬN




ĐÊM THỨC

Đôi lần nhớ lại đời ta.
Những ngày trai trẻ đã xa lắc rồi.
Lời người xưa đọng trên môi.
Hát ru đêm thức giữa trời lặng yên

ĐOÀN THUẬN




*


ÁNH NGÀY

Bình mình đánh thức mặt trời.
Hừng đông soi sáng mộng đời nhân gian.
Đêm mờ đón ánh ngày sang.
Tối tăm u uẩn bất an phai dần

ĐOÀN THUẬN



TIA NẮNG

Mặt trời từ đỉnh cây cao.
Thả buông tia sáng xuống ao sen hồng.
Dịu hương trầm tích tĩnh không.
Nắng vàng mây trắng bềnh bồng phiêu du

ĐOÀN THUẬN



BÓNG NẮNG

Bên thềm bóng nắng lặng căm.
Đâu soi thấu nỗi thăng trầm cỏ hoa.
Ngày trôi nắng nhạt chiều tà.
Hương nhu bảng lảng phai nhòa qua đêm.

ĐOÀN THUẬN



NẮNG PHAI

Thoáng nhanh ánh nắng qua chiều.
Rừng cây núi đá thủy triều mờ phai.
Lẫn trong cát bụi u hoài.
Phận đời mỏng mảnh cũng mai một dần.

ĐOÀN THUẬN



 

MỘT TRƯA XƯA

Đôi lần nhớ một trưa xưa.
Lắt lay một chuyến đò đưa về làng.
Phố quen chợt rụng lá vàng.
Một người nghiêng nón bên hàng dương xa.

ĐOÀN THUẬN




*


TRĂNG KHUYA

Trăng tàn nghiêng bóng non đêm.
Mông lung tiếng vạc sâu thêm bến bờ.
Một con thuyền ngủ như mơ.
Ai xa vắng có thức chờ đêm phai.

ĐOÀN THUẬN




KHUYA LẠNH

Đêm khuya lạnh buốt non ngàn.
Trăng mờ bếp củi lửa tàn tro phai.
Cung đàn nhịp gõ âm dài.
Thanh trầm khoản lặng u hoài lắng sâu.

ĐOÀN THUẬN




THINH LẶNG

Biết trăng rồi có lúc già.
Ngày trôi còn lại bóng tà dương thôi.
Biết người có lúc xa xôi.
Bổng dưng có lúc ta ngồi lặng thinh.

Thảo Điền, 2014
ĐOÀN THUẬN



*


ÁNH SAO

Hoàng hôn khép cửa núi đồi.
Sao đêm nhấp nháy ru hời Sông Ngân.
Ngưu Lang Chức Nữ đôi lần.
Ngại cầu Ô Thước mờ dần ánh sao

ĐOÀN THUẬN




SAO CHỔI

Trên trời Sao Chổi soi mây.
Dưới đời thác lũ quét cây lá rừng.
Bao hoa cỏ dạt vào bưng.
Rong rêu đá cuội theo từng dòng trôi.

ĐOÀN THUẬN
.
 


SAO RƠI

Lưng trời ánh giọt sao rơi.
Ngờ như phận bạc vừa rời nhân gian.
Sao thay hạt lệ địa đàng
Chia buồn vạn hữu mây Hàng phiêu diêu.

ĐOÀN THUẬN



*
.



BÓNG MÂY

Người đi ngày một ngày hai.
Ta chon von đỉnh dốc dài vắng xa.
Lũng rừng sương phả chiều qua.
Nghe heo hút bóng mây và cô liêu

ĐOÀN THUẬN

MÂY TRÔI

Mây trôi qua núi ngang trời.
Hương thời thơ ấu nay dời về đâu.
Ta đôi lần đứng bên cầu.
Nghĩ quanh con sóng bạc đầu vì ai ?

ĐOÀN THUẬN



MÂY HÀNG

Mây Hàng lơ lửng về đâu..
Thuyền nan neo bến giang đầu đêm khơi..
Tiếng tiêu buồn vọng chơi vơi..
Xa quê du tử cuối đời tha phương

ĐOÀN THUẬN



*

BÊN NGÀN

Đôi khi lẳng lặng lên ngàn
Hái dăm ba cánh hoa vàng vậy thôi.
Lên non rồi nhớ cõi người.
Hoàng hoa mấy cánh đã rơi nẻo về.

ĐOÀN THUẬN


TRÊN NON

Trên non cây cỏ hồn nhiên.
Trước mùa mưa nắng, giữa miền gió sương.
Tàn hoa úa lá phai hương.
Và ta chậm bước trên đường vào xuân

ĐOÀN THUẬN




BÊN BỜ SÔNG.

Hoa bần hồng một dải sông
Nhị bần bay tím lồng trong cây mùa.
Cuối vàm một mái chèo khua.
Giọng hò êm tưởng như lùa hương đi.

ĐOÀN THUẬN




MẶT HỒ

Đồi xa cây xác xơ thu.
Mặt gương hồ lắng cõi u minh này.
Điệu buồn rót mỏi trên tay.
Mưa rơi xóm hạ vắn dài mái rêu
.

ĐOÀN THUẬN


.

TỊCH LIÊU

Ta ra kênh ngắm mây trời.
Hoa lục bình tím như trôi chậm chiều.
Trong vô cùng cõi tịch liêu.
Nghe tan vỡ mộng mùa phiêu du rồi.

ĐOÀN THUẬN




SÂU THẨM

Nước sâu chảy chậm dòng sông.
Tình sâu nghĩa nặng khó lòng nhạt phai.
Dù cho xa cách dặm dài.
Vẫn thầm lắng đọng bao hoài niệm xưa.

ĐOÀN THUẬN



PHIÊU DIÊU

Mây bay mưa rụng xuống chiều.
Đôi nhành huệ trắng tiêu điều lá hoa.
Mong manh hương phấn nhạt nhòa.
Lẩn vào sương gió la đà phiêu diêu.

ĐOÀN THUẬN



*


BÊN KIA ĐỜI

Bên kia trời đất ban sơ.
Lá dâu chưa biếc, sợi tơ chưa vàng.
Hoa hồn nhiên trước chiều hoang,
Nụ hôn dấu kín mênh mang niềm sầu.

ĐOÀN THUẬN




KHOẢNG ĐỜI

Đường đời cao thấp chênh vênh.
Cỏ cây rừng núi thác ghềnh gió sương.
Người đời luồn lách qua truông.
Thăng trầm đắp đổi vui buồn trăm năm.

ĐOÀN THUẬN




ĐƯỜNG ĐỜI

Đường đời đôi ngã ngược xuôi.
Vui tươi hạnh ngộ, ngậm ngùi phân ly.
Mênh mông hữu hạn biên thùy.
Người đời trọ giữa chu kỳ tử sinh.

ĐOÀN THUẬN


ĐÃ XA

Người như đùa với trăm năm.
Như không biết nỗi thăng trầm âm ba.
Mộng ngày trước đã rất xa.
Đường xưa lối cũ ta qua một mình.

CÁT SỸ



PHÚT GIÂY

Xin người dừng lại phút giây.
Lá khô như rụng thêm dày lối đi.
Phụ ta người lại ướt mi.
Chuyện đầu đời ấy có gì nhớ quên.

ĐOÀN THUẬN



DỊU ÊM

Nỗi buồn đôi lúc dịu êm.
Giúp tâm an tịnh trong đêm sao mờ.
Tình đời, một thoáng mộng mơ.
Như sương nhỏ giọt xuống hồ nước trong.


CÁT SỸ




*

PHẬN NGƯỜI

Áo cơm neo chặt phận người.
Nụ đời nát giữa môi cười bể dâu.
Ta đi, sương gió mái đầu.
Ta về, tro bụi nhuốm màu thời gian.

ĐOÀN THUẬN




TÌNH XANH 

Tình xanh theo chiếc lá bay.
Thiên nhiên hoang hóa rừng cây núi đồi.
Đôi dòng suối cạn và tôi.
Khát khao một giọt mưa rơi ngang đời.

ĐOÀN THUẬN




THẦM MƠ

Thầm mơ một cõi xa xăm.
Hoang vu tĩnh mạc lặng câm thác ghềnh.
Hương mùa dịu lắng không tên.
Buông theo mây trắng lênh đênh cuối trời

ĐOÀN THUẬN



ĐÂU RIÊNG AI

Nắng nghiêng chiều xuống non ngàn.
Cõi đời đâu chỉ bàng hoàng riêng ta.
Nơi nào lối mộng không hoa.
Còn ai về nhặt bóng tà dương xưa.

ĐOÀN THUẬN

 

 

*

VỀ NÚI CŨ.

Cỏ thơm đưa bước qua rừng.
Dưới chân núi cũ, triền bưng sen hồng.
Lá khô chiều muộn cuối đông.
Giật mình tôi tưởng mênh mông lối về.

ĐOÀN THUẬN
 

VỀ THĂM QUÊ CŨ

Tôi mang nỗi nhớ quay về
Lặng nghe sóng vỗ bến mê bờ đời.
Bụi đường lẫn giọt mồ hôi.
Vương trên nếp trán, pha môi cười buồn


ĐOÀN THUẬN




VỀ PHỐ CŨ

Ta về, người đã đi lâu.
Nghe hoang phế phố, nghe lầu vắng không.
Nghe buồn cứ thế mênh mông,
Nghe khuya thấm lạnh vào trong chỗ ngồi.

ĐOÀN THUẬN




NẺO VỀ

Dù bao tiếc nuối muộn màng.
Chuyện ngày xưa cũng đã vàng lá thu.
Người qua dốc núi sương mù.
Tôi về quê cũ bóng lu mờ dần.

ĐOÀN THUẬN




DẶM XA

Thuyền nằm bóng lẫn trong cây.
Bờ yên sông tạnh thôn đầy sương pha.
Bến gần cách mấy non xa.
Bao mùa phượng nhớ em và trường xưa.

ĐOÀN THUẬN


DẶM VẮNG

Quanh co dặm vắng đường quê.
Lẫn vào rêu đá tiếng ve nhạt nhoà.
Lời buồn yên tĩnh trong hoa.
Bóng chiều rơi chậm thuyền xa khuất bờ.

ĐOÀN THUẬN


NƠI VƯỜN CŨ

Ta còn khóm trúc bên tường.
Thoáng rêu xanh phủ dưới sương đêm mờ.
Trăng tàn trong nửa vần thơ.
Nửa kia để nhớ bến bờ đã qua.

ĐOÀN THUẬN




BỎ LẠI SAU LƯNG

Về nương náu xóm bên cầu.
Bỏ sau lưng tiếng hạc lầu hoàng hoa.
Dặm đường đã dẫm chân qua.
Bến thuyền lau trắng, sân ga vắng người.

ĐOÀN THUẬN


NGẦN NGẠI
     


Tuổi đời ngày tháng lui dần.
Phố quen lối phố, ta ngần ngại ta.
Bến chiều vắng chuyến đò qua.
Quê nhà đã vắng bóng ta lâu rồi .

ĐOÀN THUẬN



Ở QUÊ NHÀ

Biển ru dương liễu đôi bờ
Sông ru lau lách trăng mơ màng thuyền.
Đời ru người mộng bình yên.
Ta ru ta những đêm huyền thoại xưa.

ĐOÀN THUẬN







"LỜI CHIỀU"


tranh của Cù Nguyễn








" CHIỀU  ”.
trong
THƠ LỤC BÁT ĐOÀN THUẬN
_____________________________

BẢO NHẤT
[ Nguyễn Đức Hiếu ]




 
. . . . Đọc cuốn Lời Chiều, lão phu thấy mình đang nâng niu trái tim của một người học trò cũ. 
Trái tim có điện mạnh đã làm cho quả tim của già này rung động nhẹ nhàng nhưng thấm thía.
Thế mới biết câu nói của người xưa “Le coeur n’a pas  de ride” (trái tim không có vết nhăn)
rất đúng. Nhưng cũng nên rung động tùy từng trường hợp, tùy từng vẻ đẹp. Tim già này
không dễ gì rung động bừa bãi. Ấy thế mà bị rung động rất nhiều về bài “Chiều xuân ở núi”:                             
 
Xuân về ta lại gặp ta.                                                
Rong chơi núi cũ chờ hoa nở vàng.                                    
Sắc màu nhoà giữa sương tan.                                     
Để thiêm thiếp nhớ một làn hương bay.

   “Để thiêm thiếp nhớ một làn hương bay”. Câu thơ tế nhị và trong sáng. Tim của Đoàn Thuận có thể là viên ngọc vừa phát sáng vừa phát âm thanh để “ru đời tròn giấc chiêm bao, chắt chiu từng hạt ngọt ngào về mai.” Có những tình cảm này thì có thể không bao giờ bị đào luyện, bị chuyển hoá hay bị mê hoặc thành người độc ác, thâm hiểm, gian dối được.

        Mong rằng những tình cảm này sẽ vươn lên, vươn lên nữa, rộng nữa, rộng nữa để thành nhất phiến, thành một khối tình không có tuổi, không sợ “rụng” như “cánh phượng“, không sợ “tàn” như “nụ tầm xuân”, không thu hẹp giữa “anh  và em” mà vươn cao, mở rộng, bao hàm và vượt cả không gian lẫn thì gian, che phủ tất cả, yêu mến tất cả những vẻ đẹp trong sáng, ôm ấp, nâng niu  những tâm hồn quang minh, vượt cả thiện lẫn ác . . . . . .


             
Sacramento,6 tháng 5 năm 1997.                     .                  .
             Bảo Nhất NGUYỄN ĐỨC HIẾU


Bút tíc của thầy Nguyễn Đức Hiếu

 

CHIỀU

Bóng lau mờ khuất đường hoa.
Chiều yên phố núi sương là đà rơi.
Dòng sông trôi mãi không lời.
Đàn chim di rét đã vời vợi bay.

Đà Lạt, 1960
CÁT SỸ




CHIỀU XUÂN Ở NÚI

Xuân về ta lại gặp ta.                         
Rong chơi núi cũ chờ hoa mai vàng.                         
Sắc màu nhoà giữa sương tan.                            
Để thiêm thiếp nhớ một làn hương bay.

CÁT SỸ




CHIỀU TRÊN BIỂN

Sóng đưa thuyền thúng bãi ngang.
Hoa kim đùa cát mặn vàng bờ xa.
Áo người đùa nắng chiều tà.
Để buồn đùa giữa hồn ta một thời.

CÁT SỸ



CHIỀU Ở NGẢNH

Bấc về làm nhớ tháng giêng.
Bãi xa con sóng vỗ nghiêng mặt ghềnh.
Lũ còng đâu biết nhớ quên.
Thản nhiên xe cát giữa mênh mông trời.

CÁT SỸ




CHIỀU TÂN LÝ

Nghe trong luống cải nương chiều,
Thoảng hương đất mới giữa hiu quạnh mùa.
Thoáng buồn sắc tím hoa mua,
Thoáng xa lắc tiếng chuông chùa núi xa

CÁT SỸ




CHIỀU BÊN NƯƠNG

Nghe trong luống cải nương chiều,
Thoảng hương đất mới giữa hiu quạnh mùa.
Thoáng buồn sắc tím hoa mua,
Thoáng xa lắc tiếng chuông chùa núi xa.

ĐOÀN THUẬN



*


CHIỀU PHAI

Chiều phai nắng, lạnh dòng sông
Con thuyền gác mái bềnh bồng nhẹ trôi.
Đàn chim về tổ qua đồi.
Sao mờ tịnh lắng khúc nôi niệm trầm.

CÁT SỸ

 

CHIỀU THU PHAI

Làn mưa lành lạnh trong chiều.
Rơi rơi dìu dịu đìu hiu hiên ngoài.
Vương buồn một thoáng thu phai.
Thầm nghe như giọt lệ dài mùa xưa.

CÁT SỸ




CHIỀU MỜ

Sau mưa liễu rủ lơ thơ.
Chiều phai nắng nhạt sương mơ bốn bề.
Gió lùa ngọn lúa đồng quê.
Con thuyền gác mái bến mê mơ màng

 CÁT SỸ

 

CHIẾU TỐI

Ta bâng khuâng giữa nhịp chiều.
Sắc màu quánh lại nghe đìu hiu thêm.
Giọt trăng vừa rụng ngang thềm.
Như tan loãng bóng rêu đêm lạnh đầy

CÁT SỸ


CHIỀU YÊN


Chiều phai nắng lạnh dòng sông
Con thuyền gác mái bềnh bồng nhẹ trôi.
Đàn chim về tổ qua đồi.
Sao mờ tịnh lắng khúc nôi niệm trầm.


ĐOÀN THUẬN




*



CHIỀU ĐÀ LẠT.


Ngồi trong quán đợi chiều về.
Phút giây theo giọt cà phê phin đường.
Đà Lạt phố chở đầy sương.
Chợt tiếng chim lạ rơi buồn dưới thung.

Dốc mờ đường cỏ non nhung.
Nỗi tôi mắt đỏ chờ lung linh đèn.
Chín chiều một mái tóc quen.
Tôi thu tôi lại để chèn thêm đau.

Tím chiều từ nọ về sau.

Đà Lạt,1960
CÁT SỸ

 

CHIỀU TÔ CHÂU

Dừng chân phố thị bên cầu.
Bờ cây bến đá quánh màu gió sương.
Ô đèn thắp bóng con đường.
Mấy ngôi nhà cổ, mấy tường rêu phong.

Dừng chân phố thị bên sông.
Lửa thuyền đêm lạnh giữa mông mênh mùa.
Tiếng người khuất dưới lau thưa.
Ngờ như lời cổ thi vừa bay qua.

CÁT SỸ



CHIỀU Ở HỒ NÚI ĐẤT

Dù mai đi khắp muôn nơi
sẽ không quên bóng trăng soi lòng hồ
không quên tiếng sóng ru bờ
chùm phong lan nở bất ngờ vào xuân.

Hoa dầu từng cánh bâng khuâng
để bằng lăng tím bao lần vương hương
con chim về hót cuối truông
núi Tà Cú khuất trong sương mờ dần.
khói lam chiều ngảnh Tam Tân
vương vương sợi nhớ theo tầng mây xa.

Một dòng xanh, đôi bờ hoa
đem hương rừng vắng về qua đất chờ
đem vào ta cả hồn thơ
để ta làm sóng ru bờ quê hương.

Núi Đất,1993.
ĐOÀN THUẬN




CHIỀU TRÊN ĐỒI


Ta về gom nhớ bao đông
Ngựa buông cương mỏi hồn trong bóng chiều.
Lũng đầy mây khói tịch liêu.
Đời phiêu lãng đã hắt hiu tình buồn.

Mấy mùa thu, mấy dư hương.
Đêm hôn mê cũng lạnh phương trời người.
Lửa chiều, điếu thuốc trên môi.
Ta nghêu ngao hát giữa đồi mây bay.

Lời nào ru nhẹ cỏ cây.
Tóc tiên hương muộn lắt lay trong hồn.
Nụ hoa hàm tiếu môi hôn.
Buông trôi nhụy phấn qua cồn đảo xa.

Nay nơi đất tổ quê cha.
Thầy cô bạn hữu đã xa lắt rồi.
Một mình ngồi dựa lưng đồi.
Ta, một du tử, lại hồi hương đây.

CÁT SỸ


CHIỀU XUÂN NHỚ QUÊ.
           

Chiều xuân mây trắng về xa.
Cuối chân trời ấy quê nhà chiều xưa.
Nhớ chiều nao chuyến đò đưa
Chở chiều qua bến sông mưa đợi chiều.

Mây chiều hay tóc em yêu,
Lòng ta phố cổ chín chiều vì đâu?

ĐOÀN THUẬN

 


CHIỀU CUỐI NĂM


Ngày tháng đuổi ta hoài sau lưng.
Ta chạy ta đi, bóng chập chùng,
đò đầy ga xép, nơi đất hứa,
ngoảnh lại, tàn phai sắc núi rừng.

Rượu đế uống suông bên đóa hồng.
Dăm người bạn cũ ngồi cuối đông.
Nhà bên thơm lừng hương nếp mới.
Đáy cốc dần vơi chiều tĩnh không.

Đàn bầu nhịp khúc điệu lam thôn.
Tình cũ nghĩa xưa thấm vào hồn,
dù xa bến nước con thuyền nhỏ,
dù đời lỡ độ tuổi hoàng hôn.

Cát bụi pha mù bóng chiều tà.
Vắng lặng đôi bờ chuyến phà qua.
Đường thôn gió thổi vàng hoa cúc.
Tiếng vó ngựa nhoài chân núi xa.

ĐOÀN THUẬN.

 



                   ..CHIỀU MUỘN

Ta ngồi đốt điếu thuốc Mai.
Ngoài kia chiều muộn đã phai nắng rồi.

Bão xa thổi lạnh qua đồi.
Những con chim nhỏ đã thôi gọi bầy.
Mênh mang một ánh lửa chài
Ru con sông ngủ giấc dài về khơi.

Ta còn em giữa cuộc đời.
Em còn ta nợ một lời ước xưa.
Đi về trong cõi nắng mưa.
Che nhau dưới bóng bụi thừa mênh mông.
Sẻ chia giây phút buồn lòng.
Buông tha sân hận bềnh bồng theo mây.

Chiều quê ta lại về đây.
Âm thầm tưởng nhớ tháng ngày trẻ con.
Dại khờ mơ mộng vuông tròn.
Bên bờ tăm tối mỏi mòn thâm sâu.
Bao lần lặng lẽ u sầu
Sương như pha bạc mái đầu thanh xuân.

Tự ta nghĩ ngợi bâng khuâng.
Ta còn mắc nợ bội phần đời ta.

ĐOÀN THUẬN




CHIỀU TÀN


Ngày trôi bỏ lại bóng chiều.
Bên bờ sông vắng ít nhiều âm u.

Lẫn trong một thoáng bụi mù
Cùng làn gió nhẹ vi vu âm buồn.
Hoàng hôn mở cửa đêm suông.
Đi vào khoảng lặng từ nguồn thinh không.

Sao Hôm thắp sáng ánh hồng.
Soi lên những áng mây bồng bềnh trôi.
Đôi vì sao lạc đổi ngôi.
Nháy trong tăm tối tựa đôi mắt trời.

Địa đàng mây nước buông lơi.
Bao người luân lạc đường đởi ngược xuôi.
Tiễn đưa ly biệt ngậm ngùi.
Tìm nơi ngơi nghỉ buồn vui mơ màng.

Chiều tàn, đêm phủ không gian.
Sương mơ bảng lảng dặm ngàn non yên.

ĐOÀN THUẬN


 

 

CHIỀU YÊN

 

Trời chiều thắp lửa trên non.
Người đi khuất nẻo trăng còn xa mơ.
Ta qua cồn cát đợi chờ.
Khúc Nghê Thường lắng xuống bờ thinh không.

Phút giây nào giữa mênh mông.
Em và ta, một tấc lòng nhân duyên.
Đưa nhau về bến hồn nhiên.
Đóa hoa núi cũ tỏa triền miên hương.

Dìu nhau qua lớp bụi đường.
Qua màn mây khói gió sương lạnh lùng.
Chung tay từng bước thung dung.
Đi về đất trọ vui cùng cỏ cây.

Tịnh yên bến nọ bờ này.
Nương theo phận mòng qua ngày lãng du.

ĐOÀN  THUẬN



*



NHẠC CHIỀU

Như rơi trong một thoáng hương.
Trong hoa tàn, một thoáng buồn chiều phai.
Nghe trong bóng liễu dặm dài.
Giọt âm thanh đọng quan hoài cung xưa.

Ta ngồi tựa gối hiên mưa.
Nghĩ trong thinh lặng ngày chưa qua đời.
Nghiêng hồn lắng giọt chiều rơi.
Khúc ly biệt ấy không lời còn đây.

Khúc nôi vào áng mây bay.
Cho sương mờ ảo chiều lay lắt chiều.
Cung đường lẻ mọn đìu hiu.
Thoáng như xa hút tiếng tiêu mơ màng.

Hoa quì sen ngó ngày tàn.
Đong đưa nhụy phấn dịu dàng êm ru.
Điệu đàn câu hát vàng thu.
Chìm trong ký ức mịt mù nhớ quên.

ĐOÀN THUẬN






*





” THOÁNG ĐƯỜNG THI ”



t ranh của Liu Zhen Hui



CẢM HỨNG ĐƯỜNG THI
 với
CÂU THƠ LỤC BÁT ĐOÀN THUẬN
___________________________________________

THÁI ANH
      

 

                  Thoáng bước vào trang thơ đầu tiên “Mùa bấc biển” của Đoàn Thuận [giải Dục Thanh lần I]  ta dễ sa đà vấp ngay cái tứ thơ thâm trầm man mác:
Chợt nghe bấc lạnh căm căm.

                                                                  Giật minh mang mang, làm ta nhớ đến câu thơ Đường của thi hào Nguyễn Du ”Tráng sỹ bạch đầu bi hương thiện” rồi dư vị câu thơ như chập chờn vuơng  vít, gợi ta liên tưởng đến cái “ý ngoại ngôn” trong câu thơ cổ “ngẩng đầu vọng minh nguyệt, đê đầu tư cố hương”. Và nữa, một câu thơ khác khiến ta nhớ đến phong cách Đường Thi thư thái của một Bà Huyện Thanh Quan hay một Trương Kế  với ”Phong kiều dạ bạc”:                 .
Thuyền ai gác mái đêm khơi.               .                                 .
Tiếng chuông chùa cổ chơi vơi núi rừng

        Cái hay của Đoàn Thuận  là chỉ bằng vài từ chắt lọc đã gợi lên được cái không khí Đường Thi trầm mặc u huyền. Hay như:                             .                     
Non xanh cửa động hoa vàng.                      
Bóng trăng thơ thẩn để ngàn năm trôi.                         
Duyên tiên chỉ có thế thôi.                           
Vút bay cái hạc lưng trời thiên thai”.
                            .
        Cái đẹp Đường thi ở đây là không gian thơ tĩnh lặng, là thời gian lãng đãng không cùng, là cái triết lý sống nhẹ nhàng thanh thản, nâng đở tâm hồn, vỗ cánh cho ý thơ “vút bay cái hạc”. Cái đẹp của câu thơ còn là sự hoà hợp tuyệt diệu của hội hoạ, thi tứ và nhạc điệu; của súc tích ngôn từ, của sự diễn đạt biểu cảm.
        Tác giả đã khéo vận dụng phương pháp cấu tứ của lối thơ bát cú – tứ tuyệt- Đường luật- vào câu thơ lục bát của mình, đã nâng tầm cho câu lục bát – vốn trữ tình – giờ đây như còn chuyển tải cả “không gian ba chiều” tâm tư sâu thẳm:                                     .
Ngập ngừng nửa bước trần ai.                         
Người xưa chốn cũ đã ngoài thời gian.                   
       hoặc như.                           
Đâu rồi khúc hậu đình hoa.                         
và đâu hoàng hạc bay qua cõi người.                                           
        Lục bát Đoàn Thuận thường ngắn gọn, 4 câu 28 từ, lời súc tích, tĩnh lặng, ý sâu, tứ thơ thâm trầm. Thi liệu trong thơ anh thường từ thiên nhiên. Một thiên nhiên tư duy bằng tâm hồn thơ.

         Cảnh vật không chỉ tạo hứng khởi cho tâm hồn, mà như chính tâm hồn nhập vào cảnh vật để thành thơ .                                      
Tạnh sông dãi lụa ngang chiều.                
Một làn khói mỏng làm xiêu cây bờ.                    
Ngờ như chiếc lá bâng quơ.                     
Tiếng chim se sẻ chạm hờ vào hoa..
                   .                    
        Nếu như trong thơ ca, cái mới không hẳn là cái lạ của thể loại, hay ngôn từ, thì lối diễn đạt ở bốn câu thơ trên hẳn phải nhìn nhận là Mới. Cái mới ở đây ta dễ cảm nhận nhưng khó phân tích. Phài chăng đó là sự kết hợp có nghệ thuật giữa tinh hoa truyền thống với tư duy mới và ngôn ngữ tinh tế của hiện đại? Thật vậy, vẫn là âm điệu của câu thơ lục bát chất liệu vẫn là thiên nhiên với hình ảnh “làn khói mỏng”. Nhưng tư duy cảm giác (nhận thức) đổi khác dẫn đến cách thể hiện củng hoàn toàn khác cũ tạnh sông, dải lụa, làm xiêu cây bờ, ngờ như, chạm hờ, và được thông qua “ngôn ngữ thơ” mà “tư duy trừu tượng” được biểu tượng (hội ý). Đó chính là nét độc đáo ở thể thơ lục bát Đoàn Thuận.

          Qua ba tập thơ: “Mùa bấc biển”, “Lời chiều”, và “La Gi ngàn xanh” vừa xuất bản, nhà thơ Đoàn Thuận đã khẳng định mình với phong cách thơ khá riêng:Phong cách biểu tượng.
                 .
         THÁI ANH.



ĐÊM MƯA ĐỌC SÁCH

Bao lần đọc sách đêm mưa.
Củi nhen ánh lửa bếp xưa quê nghèo.
Trăng treo mờ ảo lưng đèo.
Đâu soi thấu nỗi buồn heo hút đời.

CÁT SỸ

 

ĐỌC THƠ ĐƯỜNG

Đâu rồi “khúc hậu đình hoa”
Và đâu hoàng hạc bay qua cõi người.
Nỗi niềm xưa tự lên ngôi.
Để hồn thơ cổ đọng nơi bóng chiều

CÁT SỸ

 

ĐỌC TỲ BÀ HÀNH

Dòng xưa thu vắng đìu hiu
Lãng du khách thả một phiêu bồng thuyền.
Giọt đàn đọng giọt trăng nghiêng.
Nghìn năm sau tưởng giọt phiền muộn rơi.

CÁT SỸ

 

MỘT THOÁNG ĐƯỜNG THI

Người đi trong bóng mưa bay.
Thoáng Đường thi cũ, thoáng mây vào hồn.
Ai về cõi hạnh hoa thôn.
Dừng chân đây giữa hoàng hôn lạnh đầy.

La Ngâu, 1962
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]




GIỌT MƯA

Ngửa tay hứng giọt mưa đầy.
Tưởng như lời của một ngày thung xa.
Tưởng hương của một loài hoa.
Vương vương một thoáng chiều tà trong cây.

ĐOÀN THUẬN



GIỌT NƯỚC

Giọt mùa rót lạnh mái xưa.
Hạt chưa hủy thể, hạt chưa sang mầm.
Sắc màu từ cõi lặng câm.
Hóa thân trong giọt nước trầm mặc kia.

ĐOÀN THUẬN
.


GIỌT MƯA THƠ

Trong mưa có một giọt thơ.
Rơi nghiêng “lá thắm” trên tờ “tình xanh”.
Lưa thưa mưa lạnh lanh tanh.
Lâm râm thơ lắng ngữ âm trầm buồn.

ĐOÀN THUẬN
.


GIỌT MỰC BUỒN

Trang thơ mực đọng giọt buồn.
Tựa màu tim tím hoa muồng tàn phai.
Loang ra một thoáng u hoài.
Hương xưa sắc cũ đã ngoài thời gian.

ĐOÀN THUẬN

8
 
.

LƯU NGUYỄN

Đôi khi lẳng lặng lên ngàn
Hái dăm ba cánh hoa vàng vậy thôi.
Lên non rồi nhớ cõi người.
Hoàng hoa mấy cánh đã rơi nẻo về.

CÁT SỸ

 

NGOÀI ĐÀO NGUYÊN

Bụi đường theo gió mù bay.
Rơi trên tóc rối phủ đầy bờ vai.
Lang thang du tử dặm dài.
Theo chân Lưu Nguyễn cõi ngoài đào nguyên.

CÁT SỸ


NGOÀI THỜI GIAN

Duyên tiên như thể mộng đời.
Vút bay cánh hạc lưng trời Thiên Thai.
Ngập ngừng nửa bước trần ai.
Người xưa chốn cũ đã ngoài thời gian

ĐOÀN THUẬN


NHẮN VỀ NGUỒN ĐÀO

Ai người về lại nguồn đào
Gởi rằng Lưu Nguyễn đã vào nhân gian.
Non xanh cửa động hoa vàng.
Bóng trăng thơ thẩn để ngàn năm trôi.
.
La Ngâu, 1962
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]
*




KHOẢNG LẶNG

Hạc vàng đậu xuống Đường thi.
Thung chiều thoáng bóng chim di rét về.
Lời ru đơn thuở u mê.
Chạm lên khoảng lặng khúc Nghê Thường buồn.

CÁT SỸ


BÊN KIA ĐỜI

Bên kia trời đất ban sơ.
Lá dâu chưa biếc, sợi tơ chưa vàng.
Hoa hồn nhiên trước chiều hoang,
Nụ hôn dấu kín mênh mang niềm sầu.

CÁT SỸ



NHƯ BỤI

Buông theo cánh gió phiêu diêu.
Ru vào quên lãng bao điều tiếc thương.
Tịnh yên qua những đêm trường.
Ngỡ ta như bụi gió sương nhuận trầm.

CÁT SỸ


VIÊN CUỘI

Ta theo hạt bụi vào đời,
Đã thành viên cuội một thời trẻ thơ.
Giật mình giữa những đêm mơ.
Sóng yên nhiên vỗ suốt bờ dâu xanh.

CÁT SỸ

CÕI BỤI

Giọt mồ hôi thấm cõi người.
Thấy trong khô khát nụ cười hồn nhiên.
Đâu cát bụi, đâu nhân duyên,
Đâu Đào Nguyên cũ cho thuyền về xưa.

CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]










“CƠN BẤC LÒNG“


tranh của Utawa Hiroshige


                    

Từ
“MÙA BẤC BIỂN”

nghĩ về một nét thơ.
 
________________________________
 

 VÕ NGUYÊN 



                
                  

          Nói đến ”bấc biển” là nói đến những ngày trở gió, những ngày không bình thường cho người lao động biển. Nhưng  xuyên suốt tập thơ, đâu có chuyện tả gì về biển bấc, mà gặp ở đó là những “cơn bấc lòng”. Ấy là, những xao xuyến, bâng khuâng, là những nôn nao gợi nhớ, những gợn sóng yêu thương  và bất chợt những xúc cảm vui buồn.

        Đoàn Thuận làm thơ khá sớm. Thơ chọn đăng trong tập “Mùa bấc biển” là những bài anh viết từ khi chưa tới tuổi ba mươi. Anh lặng lẽ làm thơ như cuộc đời khiêm tốn, hiền từ và lặng lẽ của anh. Nói lặng lẽ nhưng anh có một nội lực dồi dào, bền bĩ cho ngòi bút. Viết rồi để đó, hoặc đọc cho bạn bè nghe, hoặc chép tay tặng bạn, thỉnh thoảng mới gởi đăng báo.

         Đọc thơ Đoàn Thuận, người ta có thể phát hịện ra ngay cái thế mạnh của anh, đó là khi anh viết những dòng lục bát. Làm thơ luc bát không khó, nhưng để có những câu thơ lục bát đọng lại nơi lòng người quả không dễ.  Thế mà Đoàn Thuận đã có được những dòng thơ nghe bâng khuâng đến tận cõi lòng:   
            
                            
.
Tiếng chuông rơi phía đồng sâu.                  
Mơ hồ như giọt đàn bầu ai xưa.

              Tất cả như loãng ra, rồi ngưng đọng, bao trùm lắng lại một không gian hoài niệm, hoài niêm đến chơi vơi, ngỡ ngàng. Nhiều lúc anh dùng lục bát để thử sức với ngôn ngữ và tỏ ra chắc tay, có khả năng thật sự. Hảy đọc thử “Chiều nhớ quê”: 

Chiều xuân mây trắng về xa            
Cuối chân trời ấy quê nhà chiều xưa .
Mhớ chiều nao chuyến đò đưa    
Chở chiều qua bến sông mưa đợi chiều.
              .                   

Mây chiều hay tóc em yêu   
Lòng ta phố cổ chín chiều vì đâu.  

          Chữ chiều cứ xoay đi xoáy lại đến ám ảnh.  Qua chữ chiều ở câu cuối lại là chuyện khác.Té ra, chiều trong bài đâu phải chỉ có chiều của thời gian, mà chiều” của không gian tâm trạng, của những vùng chiều  kỷ niệm đã trôi xa, nhớ mong, lưu luyến: chở chiều qua bến sông mưa đợi chiều.

          Đến bây giờ thì Đoàn Thuận thực sự tóc đã hoa râm, nhưng cách đây 24 năm (tức từ năm 1970) mà anh viết : “Giật mình tóc đã hoa râm lâu rồi” làm tôi thấy ngờ ngợ. Câu thơ ấy nằm trong bài thơ mà tôi rất thích  
             
Người đi đãi cát tìm vàng.     
Ta còn mê mải về ngàn rong chơi       

Qua con suối vắng tìm lời     
Gieo câu lục bát vào nơi lặng thầm                     .


Chợt nghe bấc lạnh căm căm     
Giật mình tóc đã hoa râm lâu rồi.    

 

           Tôi nghĩ, trên là bài tự cảm, nói chính xác hơn là bài tự hoạ. Ngẫm về một quãng đời, với cuộc “rong chơi” sang trọng, – tôi nói “sang trọng” vì chơi với văn chương là cuộc chơi sang trọng. Quãng đời chỉ dành cho nàng thơ, nhưng cũng hết sức oái ăm khi cảm thấy:                      
Gieo câu lục bát vào nơi lặng thầm.
 
       
Ấy, chơi với nàng thơ đâu phải chuyên đùa, một sự trả giá nghiệt ngã đến phải sợ. Một cuộc hành trình lặng lẽ đến cô đơn, với “suối vắng”, với “bấc lạnh”, để rồi thảng thốt khi nghe tiếng thời gian điểm xuống đỉnh đầu,”tóc đã hoa râm”. Đó là cách cảm nghĩ của anh, một cảm nghĩ hết sức chân thành. Nhưng đến bây giờ, những câu lục bát của anh không còn gieo “vào nơi lặng thầm” nữa. Bởi bạn đọc đang đón nhận thơ Đoàn Thuận, đang mong đợi anh, chứ đâu như anh nói: 

Đâu còn ai nhớ ai mong.   

Ta như  một chiếc bóng không đường trần.  

        
          Đến với thơ Đoàn Thuận là đến với những lời thỏ thẻ tâm tình, nhẹ nhàng kín đáo, nhiều lúc tưởng chừng như bâng quơ nhưng thấm đẫm một nỗi đời.

           VÕ NGUYÊN


________________________________
* Ghi chú:
Bài “lục bát” trích từ Mùa Bấc Biển.
 
.
 

ĐÊM ĐỒNG BẰNG

Sương đêm xuống lạnh mơ hồ.
Cánh đồng yên ngủ bên bờ sông xa.
Lời người, một thoáng mưa qua.
Chìm trong từng hạt phù sa lắng buồn.


MẶT HỒ

Đồi xa cây xác xơ thu.
Mặt gương hồ lắng cõi u minh này.
Điệu buồn rót mỏi trên tay.
Mưa rơi xóm hạ vắn dài mái rêu.


HƯƠNG TRÀM

Cây vông thắp lửa cuối chiều
Ta qua phà Bắc nhớ nhiều kênh Nam
Ai ngồi giặt áo bên vàm
Tóc mây thả hết hương tràm vào ta.

 

TỊCH LIÊU

Ta ra kênh ngắm mây trời
Hoa lục bình tím như trôi chậm chiều
Trong vô cùng cõi tịch liêu
Nghe tan vỡ mộng mùa phiêu du rồi.

ĐOÀN THUẬN

________________________________
* Ghi chú:
Bài “lục bát” trích từ Mùa Bấc Biển.
 


BẾN CŨ VẮNG NGƯỜI

Ngày qua xóm mạc làng quê.
Ruộng vườn bến đỗ bờ đê bãi lầy.

Vẳng xa tu hú gọi bầy.
Đàn cò vổ cánh nhẹ bay ngang trời.
Lời ca vọng cổ chơi vơi.
Lam thôn câu hát ru dời yên nhiên..

Sông xưa chia cách đôi miền.
Mênh mông lũ ngập, đò thuyền ngại qua.
Bên kia sương khói mù pha.
Bên này nước nổi phù sa lắng trầm.

Xuồng con neo dưới bóng râm
Thầm chờ người cũ xa xăm chưa về.
Bèo trôi liễu rũ lê thê.
Cỏ hoang hoa dại tư bề rã riêng.

ĐOÀN THUẬN.

BÊN SÔNG VÀM CỎ

Dòng sông Vàm Cỏ lửng lờ.
Ta người phiêu bạt bến bờ mênh mông.
Đến đây dấu kín hận lòng.
Một phương máu lửa, một dòng thơ đau.

Thôi nguồn sông với đồng bào.
Quê hương tháng bảy mưa mau cuối trời.

ĐOÀN THUẬN


________________________________
* Ghi chú:
Bài “lục bát” trích từ Mùa Bấc Biển.
*
 
 

NHỚ MỘT BẾN SÔNG.

Gió xa về thổi cây chiều.
Cát chuồi bọt dưới chân triều sóng xanh.
Vài con còng gió chạy quanh.
Mải mê xe cát cuối gành dưới trăng.

Sông ngăn bến cũ đôi đằng.
Con đò mụt nát đã hằng vạn khuya.
Thản nhiên bến nọ cồn kia.
Cỏ lau trắng trước người chia tay người.

Mây trôi qua núi ngang trời.
Hương thời thơ ấu nay dời về đâu.
Ta đôi lần đứng bên cầu.
Nghĩ quanh con sóng bạc đầu vì ai.

ĐOÀN THUẬN


NHỚ MỘT CON ĐÒ

Đâu rồi một chuyến đò ngang.
Để người phố chợ qua làng thăm nhau.
Tiếng chuông rơi phía đồng sâu.
Mơ hồ như giọt đàn bầu ai xưa.

Quán lều bến vắng khuya mưa.
Ngỡ ngàng ta tưởng như chưa hề về.
Hay đò lạc bến sông mê.
Để dòng lũ cuốn trôi về biển khơi.

Đò ơi !
Tiếng vọng không lời.

ĐOÀN THUẬN

________________________________

* Ghi chú:
Bài “lục bát” trích từ Mùa Bấc Biển.
*

 


” GIÓ BẤC BIỂN “
.

tranh bìa của Cù Nguyễn


Chuyện
“MÙA BẤC BIỂN”
_______________________________

Đoàn Thuận




           Năm 1969, tôi đến Trung học Hà Tiên dạy Việt Văn,sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm.  

           Hà Tiên ở cuối miền đất nước, rất xa quê Mẹ, nên gió bấc biển làm tôi rất nhớ La Gi, nhớ Sài Gòn. Không dám tâm sự với ai, tôi thầm lặng lưu lại trong tập tùy bút nỗi nhớ ấy cùng bao điều nghe thấy ở Hà Tiên.
           Vào một ngày đầu xuân, hai phụ huynh, anh Ba Bờ và anh Năm Lá, đến nhà trọ thăm tôi. Từ đó, chúng tôi thường thả thuyền trên Hồ Đông vào những đêm trăng. Anh Ba Bờ ngân nga những câu hò theo điệu “lam thôn”. Anh Năm Lá ca những câu vọng cổ về “Đất phương Nam”. Tôi đọc vài câu tùy bút về “Miệt Thứ”….Từ đây, chúng tôi thành Nhóm Ba Lá, gồm có Ba Bờ ờ kênh Vĩnh Tế, Năm Lá ở Kiên Lương, Tám Thuận ở La Gi.
           Năm 1972, tôi từ giả hai Anh và Trung học Hà Tiên chuyển về Trung học Bình Tuy. 

             Cuối năm 1993, báo Bình Thuận đăng một bài thơ trong đó có câu “Đã mấy năm xa Sài Gòn ơi”.và khép tôi vào tội “mơ tưởng đến Sài Gòn, thủ đô chế độ Mỹ Ngụy…”.Ngài Đinh Hữu Hồ gọi tôi là “Giáo viên Ngụy dạy tiếng đế quốc Mỹ” vì trước 1975 tôi dạy Anh Văn tại trung học Bình Tuy. Tôi bị đình chỉ công tác, dù lúc ấy tôi là Hiệu Phó phụ trách Lao Động, dù đã tốt nghiệp Trường Cán bộ Quản lý.
             Tôi tự thấy không thể “lao động” ở một trường học, nên làm đơn xin ra khỏi ngành giáo dục về “làm thợ hồ” theo giấy phép của Ban Quân Quản cấp cho tôi vào tháng 4 năm 1975, sau khi học tập cải tạo và được “trả quyền công dân”. Do vậy, Ủy Ban Tỉnh Bình Thuận ra quyết định điều tôi đi “xây dựng” ngôi trường mới trên nền đất Sư Phạm Mầm Non cũ, theo thiết kế của kiến trúc sư Huỳnh Thanh Trúc.
             Bất ngờ, anh Ba Bờ và anh Năm Lá, về La Gi, cho xem một trang lưu bút do tôi viết tay bài thơ “Nhớ Sài Gòn” vào năm 1972 ở Hà Tiên. Hai Anh cũng hỏi tôi về những bài tùy bút viết về Hà Tiên mà Ban Quân Quản đã tịch thu và khuyên tôi “nên ở lại ngành giáo dục”. Hai anh ra Ủy Ban tỉnh Bình Thuận trình bày sự việc. Sau đó, mọi “sự việc” chìm vào thinh lặng và tôi tiếp tục làm việc tại trường Bán Công Nguyễn Huệ.

              Tháng 4 năm 1997,Văn phòng trường Nguyễn Huệ
nhận Thư Mời ông Đoàn Thuận ra tỉnh nhận Giải Dục Thanh từ tập thơ Mùa Bấc Biển. Trường trả lại “thư mời” với lời ghi chú “trường Nguyễn Huệ không có ai là Đoàn Thuận”.
              Ba ngày sau, Năm Lá và Ba Bờ về Tân An trao tôi tập thơ MÙA BẤC BIỂN. Tôi tự nhận ra những bài “tùy bút” tôi viết vào những năm dạy học ở Hà Tiên và thường ký tên Cát Sỹ hay Trần Thuận. Nay, tập Mùa Bấc Biển không có dòng nào nói về “bấc biển” và tác giả tập thơ lại là “Đoàn Thuận”. Thấy tôi thắc mắc, Năm Lá giải thích đôi điều. Sau vụ “đình chỉ công tác” vì câu thơ “...mấy năm xa Sài Gòn …”, nhóm bạn thân một thời đã âm thầm sưu tầm những bài thơ viết về Hà Tiên và biên tập thành “Mùa bấc biển”. Phần lớn những bài này nằm trong tập “Lưu Bút Ngày Xanh” của Trần văn Đoàn, người em kết nghĩa của Trần văn Thuận. Do đó, bút danh ĐOÀN THUẬN là tên ghép từ Trần văn Đoàn và Trần văn Thuận.Thật ra, trong tập bản thảo có một số bài viết về “gió bấc biển” gợi nhớ về quê mẹ La Gi,về miền đất trọ Sài Gòn nhưng sau khi tập thơ được suất bản, “đâu có chuyện tả gì về biển bấc, mà gặp ở đó là những cơn bấc lòng”, như Võ Nguyên nhận định. Có lẽ, nhờ thế mà tập thơ Mùa Bấc Biển được Giải Dục Thanh lần 1 và xuất hiện một tên Đoàn Thuận.

         Tôi thầm nghĩ: dù tập “Mùa bấc biển” không còn “gió bấc” nhưng “bấc lạnh” vẫn thổi mù mái tóc Cát Sỹ, qua dặm đường cát bụi, giữa cõi tạm này.

              La Gi,1997
              Đoàn Thuận

*


MÙA BẤC


La Gi mùa bấc biển sang.
Nghe heo hút gió mang mang bãi bờ.
Trăng về chất ngất câu thơ.
Đêm yên ả để bâng quơ tiếng cười.

Sóng xa như dạt mây trời.
Về phương nhớ của một thời mộng mơ.
Khuya mông lung, khuya mơ hồ.
Đò ai ngủ lạnh một bờ sông xanh.

La Gi,1962
Trần Thuận.

 



BẤC THỔI

Hà Tiên như bến bờ kỷ niệm.
Sóng vô cùng vỗ suốt đêm thâu.
Lời ai hát từng mùa bấc thổi.
Cồn đá buồn lau trắng bãi dâu.

Những dòng kênh qua đồng châu thổ.
Dặm đường dài lòng ta ngổn ngang.
Đâu có biết ra đi xa hút.
Để từng chiều úa cỏ quan san.

Hà Tiên, 1969
CÁT SỸ.
Bài này bị xóa khỏi “Mùa bấc biển”in lần 1.
*



GIÓ NỒM.

Gió Nồm thổi áng mây đen.
Mịt mù u ám cài then khung trời.
Sấm rền sét đánh đôi nơi.
Bảo bùng từ chốn xa khơi tạt vào.

Đường cây mái phố gió gào.
Nhạt mờ cái bụi, rạt rào mưa tuông.
Âm mưa gõ lạnh phố buồn.
Đèn vàng hiu hắt đêm buông lặng thầm.

Mưa trên mái ngói lâm râm.
Ngoài hiên từng nốt nhạc trầm nhẹ rơi.
Hoa quì trong tối không lời.
Chỉ còn thơm thảo hương trời vấn vương.

Lưa thưa mưa chạm chân tường.
Giọt âm tí tách theo đường rêu đêm.
Vi vu gió thoảng ngang thềm,
Ru đưa hoa cỏ êm đêm vào khuya.

Mây mưa như thể chia lìa.
Đôi đàng gió thổi, đầm đìa sương rơi.
Áng mây bay ngút về trời.
Hạt mưa ghé tạm đường đời trần gian.

CÁT SỸ
Bài này bị xóa khỏi “Mùa bấc biển”in lần 1

*



GIÓ BẤC

Ào ào gió Bấc lạnh buồn
Thổi qua động cát ruộng vườn núi sông.

Mây đen gió lộng tầng không
Đổ mưa bạt nước mênh mông trời chiều.
Đầm hồ vụng biển đìu hiu
Cỏ cây nằm rạp tiêu điều bến sông.

Sấm rền ầm ĩ bảo giông.
Nương rau ruộng lúa tịnh không bóng người.
Thôn nghèo vắng lặng tiếng cười.
Mái tôn xiu vẹo, hoa tươi dập vùi.

Nông phu ngư phủ ngược xuôi,
Âm thầm ứa lệ ngậm ngùi dưới mưa.
Tang thương đất cũ quê xưa.
Người đi kẻ đến đón đưa ngại ngùng.

Chim bay biền biệt mông lung.
Rừng xanh ngã đổ chập chùng gió sương.
Một ta lở độ dặm đường.
Nhớ quê nhớ mẹ, nhớ hương tóc dài.

Dưới làn gió Bấc thổi dai.
Buồn đau dân dã, u hoài non sông.
.
CÁT SỸ
Bài này bị xóa khỏi “Mùa bấc biển”in lần 1








tranh của Carl Gustav




ĐOÀN THUẬN,
người đi tìm thời gian đã mất.
____________________________________

THÁI DOÃN HIỂU


         Thơ ca thường đi thẳng vào trực giác bằng sự cộng hưởng nhạy cảm của tâm hồn, trí tuệ giữa nhà thơ – người phát, và sự phản quang  lượng thông tin nơi bạn đọc - người nhận. Bởi thế, thơ hay khó phân tích, biện giải bằng trí thông minh hoặc đo lường bằng chuẩn mực định sẵn.

       Với vẻ đẹp xưa, kín đáo và sâu lắng như hồn quê, thơ Đoàn Thuận chất chứa nội tâm. Nội lực của thơ Đoàn Thuận là những kỷ niệm tuổi thơ xa vời với tình yêu quê hương chan chứa, ngổn ngang chuyện đời may rủi vương mang muôn thuở của kiếp người.                         .


Có đêm điếu thuốc tàn lại đốt                   .
Tro bụi thời gian gạt xuống lòng.

        Giống như Mac-xen Prút, Đoàn Thuận làm thơ là để đi tìm thời gian đã mất, để mong gặp lại khuôn mặt mình. Thơ Đoàn Thuận là những mảnh vỡ ký ức về chiều , được ký hoạ lại khá sống động để tưởng niệm một đời người, đời thơ. Ta gặp ta ngồi suốt đêm mưa, để làm gì? Phải chăng nhà thơ muốn tổng kết Nửa kiếp long đong phận mình  khi đời đã nghiêng bóng xế chiều vào ta ?

        Nhưng bạn đọc thấy rõ tác giả khá lúng túng:  chân trời lóng ngóng dài thêm tháng ngày Đoàn Thuận rất ngại ngùng, nói ra cũng chỉ để dặn lòng mà thôi, chứ thực ra nắng mưa làm mỏi bước đời, để rồi muốn níu kéo thời gian, để xin người hãy chậm chân chiều.

        Đoàn Thuận nặng lòng yêu thương, gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn thật da diết.Từ sông núi, lau lách,sóng vỗ,trùng khơi, thôn xa, cồn cát trắng, dương liễu xanh,mảnh trăng gầy rụng phía sau non, cùng mưa rơi phố huyện vắng dài mái rêu, đến những cánh chim di rét.

        Thơ Đoàn Thuận thủ thỉ, tâm tình, chứa đầy tâm trạng và cất lên ở tầng biểu tượng với không gian ba chiều thoáng đãng. Nói về gió bấc biển nhưng không phải gió bấc gây khó khăn cho ngư dân ra khơi vào lộng,mà là bấc lòng nổi sóng trong tâm  Đoàn Thuận. 

           Rất nhiều chiều trong thơ Đoàn Thuận, nhưng chiều không phải là chiều thời gian mà là chiều của không gian tâm tưởng khuấy động bởi sự tự ngẫm vụt qua, bừng sáng.                     .

chở chiều qua bến sông mưa đợi chiều.         .

         Hãy xem. Đây là giây phút mộng du:      .        
Ta ra kênh ngắm mây trời                          .
Hoa lục bình tím như trôi chậm chiều.       
.   .
         Một khoảnh khắc bối rối:                .
Ai ngồi giặt áo dưới vàm                            .
Tóc mây thả hết hương tràm vào hoa                .
  .  

        Một cái giật mình trong đơn chiếc:          .                   
Giọt trăng vừa rụng ngang thềm  .                   .
Sương tan loãng bóng rêu đêm lạnh đầy              .

        Một thoáng ngơ ngác:                .
Về mai chân dẫm lên chiều.                        .
Lá bàng mấy phố rụng nhiều lối que
n..         .

       Một chút bâng khuâng:                ..
Mờ xa đốm lửa trên ngàn                      .
Giọt sương cõi tục đã tràn mắt đêm.
             .
        Một giây mơ hồ:                           .
Tiếng chuông rơi phía đồng sâu                   .
Mơ hồ như giọt đàn bầu ai xưa.

        Một lúc mơ màng ngây ngất:                     .
Sắc màu nhòa giữa sương tan                    .
Để thiêm thiếp nhớ một làn hương bay.        

       Đoàn Thuận bắt đầu làm thơ từ thuở cắp sách đến trường, nhưng sống khiêm nhường và  thanh  thản của đời một nhà giáo tỉnh lẻ.Nghĩ về thiên sứ của mình, Đoàn Thuận viết:

Nhà thơ,
người chạm tay lên ngôn ngữ
khắc lên vầng trán thế kỷ
những nếp nhăn cõi người
người hôn nỗi buồn vui
hôn lên cõi chết và đất sống
ngân lên cung bậc
lan xa về chân trời


          Đoàn Thuận đã tuân thủ ý tưởng trên khá nghiêm nhặt khi làm thơ

Người đã đến tạc thơ vào hồn đá
Từng lời chiều thả lạnh xuống hư không.

       Dạy học và làm thơ,gắn chặt với nghề cao quí, trí tuệ và tâm hồn Đoàn Thuận đã được thanh hóa trở nên huyền ảo lung linh.Cầu chúc cho nhà thơ có thêm
những trang sách thơm lừng hương cỏ,
và lời chiều thiếp ngủ trong hoa.


         THÁI DOÃN HIẾU


 

THỜI GIAN


Một đời như thoáng mây bay.
Sóng bạc đầu vỗ tháng ngày mặn môi.
Nắng mưa làm mỏi bước đời.
Tưởng đâu hụt hẩng giữa thời gian trôi
.
Không người, năm tháng vẫn trôi.
Không thời gian, không ai ngồi chờ ai.
Không sao Hôm, chẳng sao Mai.
Không ta, không biết đêm dài hay không?

ĐOÀN THUẬN
.

 

DÒNG THỜI GIAN

Một ngày tằm đã nên tơ.
Thiên thu một phút tình cờ nên ta.
Một lời hương chợt thành hoa
Nghe trong tiếng lụa xé nhòa sương tan.

Ta đi suốt những chiều tàn.
Tìm em dưới bóng hoa vàng hồn nhiên.
Trái vông khô rụng một miền.
Bổng dưng cháy lửa cuối triền sông xa.

Có hoa như đã có ta
Không em một cõi ta bà vắng không.
Dặm về cố quận mênh mông.
Hoa kia bướm nọ bên dòng thời gian.

CÁT SỸ

 


NHỊP THỜI GIAN


Đồng hồ tíc-tắc trên tường.
Thời gian theo nhịp vô thường êm trôi.
Tháng ngày xé lịch mùa đời.
Nhân thân khoảnh khắc rã rời thiên thu.

Vào đời dò dẫm lộ mù.
Bờ mê bến mộng âm u bóng người.
Đồng thuyền xuôi mái vui cười.
Bên nhau xuân thắm hoa tươi hương nồng.

Ngày lên nắng ấm mênh mông.
Đêm về như lớp sương trong mịt mùng.
Dù lòng mơ ước thủy chung.
Đồng sàng dị mộng lạnh lùng chia phôi.

Cùng chung vạn hữu luân hồi.
Loài người nương tựa dòng đời trăm năm.
Nhịp chân ánh mắt xa xăm.
Trở về cát bụi âm thầm bỏ buông.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận


MÀU THỜI GIAN

Tháng ngày tư nó không buồn
Trăng không hoài niệm, mưa nguồn không đau.
Người về, vui nhịp chân mau
Người đi, bỏ phố tím màu hoàng hôn.

Đêm ngừng trước những môi hôn
Dăm ba lá rụng vào hồn mùa thu.
Hồng hoa tàn trắng sương mù
Một dòng trôi mãi hoang vu bến bờ.

Thoáng mùa chạm nhẹ lên thơ
Trăng khuya ngủ lạnh, đêm mờ khóm lau.
Lối vườn rơi mỏng hương cau
Giấy thơm lừng giọt mực màu thời gian.



BỤI THỜI GIAN

Bụi thời gian lấp nụ cười.
Trăm năm đâu biết phận người một đêm.
Rừng xa lá có xanh thêm.
Tóc ta sao cứ từng đêm trắng nhiều.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận





ĐƯỜNG THỜI GIAN

1.
Mùa hạ đã qua lâu
thu về quanh đây rất chậm
rất chậm cho những người xa nhau
nhớ qua màu lá rụng
những đôi mắt ngủ sâu
bên nẻo đời xa lắc.

2.
Đôi mắt hồn nhiên của tuổi thơ vui
trong đôi tay ngón dài
ôm một niềm thu biếc
nơi thành phố đầu đời
khi mưa bay dài qua khung cửa.

với ước mơ hoa
buồn vui kiêu sa
gửi vào hồn giấy mực
tan trường về chưa biết ướt mi.

Đôi mắt vô tư trên trang vở quen
khi bóng hạc bay qua miền cổ điển
đã gãy cánh vàng đâu đó non tiên
những tràng giang trôi đi xa miền
vào chân trời vô biên.

Những lưu bút ngày xanh
chỉ một màu phượng đỏ
ép khô mùa hạ nhớ
với thoáng tình mộng mơ.

3.
Đôi mắt theo ta về phương xa
bước chân chiều phiêu bạt
đường thời gian theo mãi bao giờ
thản nhiên bao mùa cúc
vàng một đời áo thu.

Đôi mắt người xưa
trên tháng ngày lặng lẽ
khắc khoải trong ta vô bờ.
.
ĐOÀN THUẬN


 





MÁI TÓC THỜI GIAN

Thời gian gõ nhịp séc-na.
Tóc xanh theo đó sương pha mái đầu.

Người đời đứng trước bể dâu.
Bên làn cát bụi, dưới màu khói mây.
Mây mưa, đất biến bùn lầy.
Cát chuồi xuống lũng, bụi bay đường dài.

Sao Hôm mong ngóng Sao Mai.
Sao khuya nhấp nháy đêm dài sao rơi.
Sao nào vận mệnh đời tôi.
Mây Hàng lờ lững lưmg trời phiêu du.

Quê xưa thăm thẳm dặm mù.
Mẹ nghèo khốn khổ bao thu lệ sầu.
Mắt mờ thao thức đêm thâu.
Mong con đến buổi bạc đầu chưa nguôi.

Còn tôi lưu lạc ngược xuôi.
Thân nơi cõi tạm ngậm ngùi nhớ thương.
Âm thầm mong ước hồi hương.
Dù cho mái tóc bạc đường thời gian..

Thảo Điền 2014
ĐOÀN THUẬN




GIỌT THỜI GIAN

Tự pha một phin buổi sáng
chờ nghe đậm đặc, từng giọt cà phê thời gian.
Chiếc cốc pha lê acoroc, sóng sánh đen.
Kim đồng hồ seiko, nhích từng nấc đốm sáng.
Nắng sớm chưa lên, sân rêu không âm thanh.

Ô cửa khép lạnh, căn phòng màu tường ngọc bích.
Mona Lisa,sau khung bạc,nhìn nghiêng hoa cúc vàng.
Nụ cười mỉm, không nghe hoa rơi trên phím đàn.
Cung bậc piano lặng câm,ngoài tiếng rơi quánh đặc.
Con chim giũ cánh lùa ánh sáng lan can vào ghế bàn.

Chậm chạp cây sầu đông treo ngang làn sương nhạt.
Lối sỏi, thềm hoa vắng, sa-lông trống, không ai về.
Phin buổi sáng nhỏ giọt, đậm đặc, thời gian cà phê.
Muỗng đường nhỏ chờ dỗ ngọt tách pha lê đắng.
Mùa trôi bao nhiêu năm tôi còn một góc quê
.
      .
ĐOÀN THUẬN





BIỂN THỜI GIAN

Biết nói gì với em
con sóng vỗ êm đềm
vào bãi bờ yên vắng
của thời gian yêu em.

Của thời gian bao đêm
của thời gian nỗi niềm
của nước triều lên xuống
của ước mơ triền miên.

Khuya nay ngồi với biển
trăng nước và mông mênh
bờ cát chìm vào tối
biển thời gian lênh đênh.

ĐOÀN THUẬN




*




ĐÂU NGÀY THÁNG


Những dòng sông mùa đông,
mây trắng trên núi không,
đâu cần chi ngày tháng,
bình thản vào mênh mông.

Biển vẫn luôn dạt dào
tìm mãi bờ ngọt ngào
gửi tấc lòng hạt mặn
vào cõi ngàn xanh dâu.

Cội mai ngoài quan san
đâu cần mong xuân sang
buông thả hương thanh khiết
theo gió sương bụi vàng.

Người đến từ hồn nhiên
cỏ hoa cõi tịnh yên
biết chi lòng ta xót
trước phai tàn vô biên.

ĐOÀN THUẬN





CHIIỀU  HOANG.


Chiều bỏ đi trước trang thư ép hoa.
Vài con chữ nằm yên suốt đêm qua.
Và hạt bụi ngủ vùi trong đất cũ.
Bên thềm hoang loang lổ sắc rêu nhoà.

Chiều bỏ đi về non phía chân trời.
Câu thơ xưa tuột khỏi bờ môi người.
Tơ vàng mỏng chạm lên ngàn tiếng trúc.
Một dòng trôi vô tận cõi không lời.

Chiều bỏ đi leo lét đèn sân ga.
Tiếng võng ru lặng lẽ suốt mùa hoa.
Đêm quánh đặc bóng bờ cây dương liễu.
Ai trở về, ai vội gõ guốc qua.

Chiều bỏ đi con thuyền neo bờ xa.
Đường bên kia còn lại bóng nếp nhà.
Ngàn bông cỏ thức chờ trăng lặng tĩnh.
Phố bên này lẫn khuất giữa sương pha.

Chiều bỏ đi thật xa chỗ ta ngồi.
Khói và tro, từ lửa, đã chia đôi.
Tàn đốm thuốc không đủ soi dòng chữ.
Chỉ bừng lên khuôn mặt thuở xa xôi.

ĐOÀN THUẬN



CÓ LÚC

Cõi hồn có lúc chơi vơi.
Tưởng trong nắng cháy mưa rơi giọt buồn.

Tưởng đâu xa lạ con đường.
Về qua heo hút một phường phố quen.
Tưởng trong lửa sớm mới nhen.
Hơi mây đá núi lạnh len vào chiều.

Cõi người có lúc quạnh hiu.
Cỏ cây trót đã it nhiều tàn phai.
Nhịp mùa vỗ giấc mơ dài.
Trong muôn thao thức có hoài niệm riêng.

Trăng tà xô bóng cây nghiêng
Bờ khuya mấy độ khuất thuyền trăm năm.
Giữa đời có lúc xa xăm.
Đâu người vườn cũ lặng thầm bên hoa.

ĐOÀN THUẬN



ĐÔI KHI


Đôi khi đá cũng ưu phiền.
Sông xa nguồn nhớ con thuyền về xưa.
Đôi khi giữa nắng chợt mưa
Một đời phiêu lãng lại chưa quên người.

Đôi khi nghe mặn môi cười.
Trong muôn lá rụng có lời hạnh hoa.
Đôi khi gần lại rất xa.
Ẩn trong hạt nước bao la cõi đời.

Đôi khi vui lại bồi hồi.
Thanh âm tiếng hát có đôi giọt sầu.
Giữa mùa đông lại mưa ngâu,
Vàng khô lá rụng bên cầu sông Ngân.

Đôi khi quên mất số phần.
Đùa cùng cát bụi, hung thấn ghé thăm.
Đôi khi giữa cõi thăng trầm.
Thoảng hương thanh tịnh vương thầm trong ta.

ĐOÀN THUẬN



MƠ HỒ


Có đêm, mưa đổ không thôi.
Nhiều ngày, nắng gắt núi đồi hạn khô.
Đôi khi lại thấy mơ hồ.

Nhớ quên chuyện cũ ngây ngô.
Buồn vui trước cảnh xô bồ dại khôn.
Ngẩn ngơ như kẻ mất hồn.

Ai xa hát điệu lam thôn.
Lời xưa dân dã bồn chồn dưới trăng.
Phải đâu tiếng vọng sông Hằng.

Sao ta cứ mãi băn khoăn.
Người đi kẻ ở, đôi đằng mà chi.
Cho đời lắm lúc chia ly.

Trăm năm như một hạn kỳ.
Chết già chết yểu, chết khi rã rời.
Lẽ nào số mệnh chơi vơi.

Mơ hồ một cõi đất trời.
Mơ hồ một phận bụi đời gió sương.

ĐOÀN THUẬN







MÁI XƯA




TIẾNG SÓNG
_________________________________
Đoàn Thuận


       Năm tháng trôi đi, có những điều tưởng chừng mất hút theo thời gian  chìm vào quên lãng. Thật ra, tất cả  vẫn còn lẩn quất trong cõi người. Hương hoa tưởng như mất đi khi sắc hoa tàn úa, nhưng hương mùa vẫn đọng mãi theo thời gian vô cùng, giữa không gian tĩnh lặng.

       Một ngày về lại quê nhà, tôi nghe tiếng sóng từ bờ dịu êm như khúc nhạc chiều. Tiếng sóng xa khơi trôi mãi lại gần vỗ nhẹ nơi bờ nước tan loãng vào không gian tĩnh mịch. Phút tịnh yên như khoảng lặng Schubert theo gió chuyển dần vào sâu thẳm  Cứ như thế hết đợt này sang đợt khác rì rào xa xôi. Ngày nào xa quê, tôi không sao ngủ được vì con sóng ngoài khơi ấy. Nay về dưới mái xưa, tôi lại thức với những đêm dài.

       Mẹ Già đã về bên kia núi, khuất nơi chân trời, Mái Xưa đổi chủ. Đêm nay tôi ngỡ như gặp lại Mẹ giữa mùa bấc thổi.  Mẹ ngồi gù lưng đào từng con chang chép, tóc trắng bay xòa trong gió. Biển chiều thẳm một màu tím. Bóng Mẹ mờ dần vào đêm và tôi chờ vầng trăng lên. Những cây rau sâm biển, gốc trắng nõn lá xanh bông vàng dịu, thơm mùi cát mặn. Tô canh bồ ngót, với chần chần giã nhỏ, vẫn ngọt ngào suốt một tuổi thơ, dù lời ru đêm dưới Mái Xưa không còn nữa.                            

          Tiếng sóng rì rào xa xôi làm nhớ tiếng tiêu buồn của Phan. Phan bây giờ ở đâu ? Thúy bây giờ về  đâu ?  Đâu rồi một căn gác gỗ, những bậc cầu thang, thềm rêu mái cũ. Đâu bóng người lầm lũi trên đường mưa chiều nơi một ga nhỏ? Có thể giờ này mỗi người một phương nhưng mối tình của thời cắp sách ấy còn ai nhớ ai quên? Tiếng sóng vỗ từ bờ dương liễu xa hay tiếng tiêu buồn lắng trong chiều vàng mùa cũ?

          Tôi như gặp lại mình rong chơi trên đồi cỏ cú giữa khu rừng vắng, khờ khạo tìm đóa hoa lạ cài lên mái tóc em, người em gái còn ngủ say trong rừng mơ. Bao chiều thả trâu qua đồng sau mùa gặt, ngậm một gốc cỏ cú nghe hương nồng trong mũi mà hồn như trôi theo áng mây cuối trời. Những con trâu ngày nào thả láng thả bưng đã già nua đã thành tro bụi nhưng hình ảnh bạn xưa vẫn như còn đùa nghịch trong trí nhớ. Những trận bóng quyết liệt tại một thửa  ruộng vừa gặt xong còn nồng mùi rạ ướt. Những buổi đá bò, u mọi, đánh trỏng thả diều, những buổi lang thang trong rừng hái nổ hái sim. Hắt hiu một trưa hè. Vi vu một bờ dương liễu. Dìu dặt một đêm mưa.        .               
        Con sóng xa lắc từ ngàn đời vỗ mãi vào bờ tâm hồn rì rào xa xôi.

          La Gi,1994.  .                               .
          ĐOÁN THUẬN.                                               .
          .                                         .



NHÀ MẸ XƯA


Ngôi nhà mẹ.
Ánh lửa bếp chiều ấm ký ức hoang vu.
Ngói âm dương vỡ tan những mảnh vụn kỷ niệm.
Âm thanh ngói rơi xuống tuổi thơ lời ru xưa.
Tan loãng mông lung buồn mây mưa.

Tiếng ngói đổ chạm đáy hồn người tha phương.
Giọt trầu đỏ quệt ngang thềm phố cổ mùa đông.
Vách lam ngả bóng hoang sơ vào kẻ nứt ngày tháng.
Dội lên màu khói lửa nhức nhối tâm tư cô đơn.

Nỗi quê gối đầu lên rêu xanh sân gạch.
Cành điệp vàng quét bụi khói nhang bàn thiên.
Mẹ móm mém tạ ơn đất trời đứa con lưu lạc.
Chiều lại buồn nước mắt tiễn chân con.

Rồi ta về một mai lạ lẫm những lối mòn.
Rồi ta về một mai đâu ai quen.

Tân Lý,1960
CÁT SỸ






NHÀ CŨ NGÀY TẢN CƯ

Nhà sàn đơn sơ trong rừng xanh.
Hai gian cành nôm nơi đầu gành.
Vách tre dừng lá, cửa song trúc
Tản cư tạm trú thời chiến tranh.

Lương khô trời cho kho không lưng.
Khoai mài, linh chi, nần, sâm nhung.
Lúa rài Ba Trăng, bột săn tế.
Cá đồng, thịt thú, mật ong rừng.

Hương hoa màu cây thay quanh mùa
Muồng vàng, mây bưng, bông lau thưa.
Nấm dại, rêu hoang, suối trong mát.
Phong lan thơm thoảng theo gió lùa.

Ngày vang lời chim muôn âm thanh.
Đêm ru hương pha sương long lanh.
Người xa quê cũ chốn rừng thẳm
Thầm lặng ước mong đời yên lành.

CÁT SỸ




LỜI MẸ RU


Con thơ ú ớ trong nôi.
Ví dầu tiếng khóc chào đời đong đưa.
Nhưng đâu hẳn một âm thừa.
Vang trong lòng mẹ dù chưa thành lời.

Ví dầu mẹ hát à ơi.
Ru con với ước mơ đời bình yên.
Mong sao chẳng phải buồn phiền.
Khi con khôn lớn nơi miền quê cha.

Ví dầu liễu rũ la đà.
Êm đềm bến mộng bờ hoa câu thề.
Cha rồi khuất nẻo sơn khê.
Đường trần như thể từ bề thê lương.

Ví dầu mai mốt đoạn trường.
Con còn có mẹ yêu thương mặn nồng.
Ngoài hiên rêu biếc tĩnh không.
Con ơi, hãy lắng tiếng lòng mẹ ru.

ĐOÀN THUẬN


*


NHÀ XƯA

Nhà xưa ở cuối nẻo thôn dâu.
Lối ngõ quanh co khuất phố lầu.
Bụi bám tường vôi mùa bấc lộng.
Rêu phong mái ngói bóng mưa ngâu.
Vài pho tượng đứng buồn năm tháng.
Mấy bức tranh treo bạc sắc màu.
Tịnh xá am mây đều chẳng phải.
Hồn xưa nếp cũ nghĩa tình sâu.


ĐOÀN THUẬN




MÁI XƯA.

Từ biệt mái nhà xưa,
nghe lòng ta rơi mưa,
khi xa kỷ niệm đầu đời,
xa những ngày yên tĩnh,
những ước mơ không lời.

Đâu những buổi chiều lặng.
Ánh nắng vàng bên kia song cửa,
Gió đưa hương hoa nhẹ vào cây,
Một bóng mây trên cao khung trời.
Đâu những đêm trăng vừa lên.
Mộng mơ tan vào ánh bạc.
Ruộng đồng khuya yên ắng không gian.

Ôi, ngôi nhà của Mẹ ta xưa.
Mái lá đơn sơ nhưng ấm tình non nước.
Ra đi rồi ai hiểu được lòng ta.
Ai sẽ cho ta những ngày yên gió.

ĐOÀN THUẬN

 


LỀU LÁ


Người về lều lá hư không.
Ta một thôn vắng nghe mông mênh buồn.
Hồ đời đọng ánh trăng suông.
Ở đâu mà chẳng mưa nguồn lá bay.

Ngưới về thoáng chút heo may.
Ta ngồi lại với sân đầy rêu đêm.
Mái đầu pha trắng sương thêm.
Ở đâu cát bụi chẳng mềm nắng mưa.

Mái cành nôm dọi lại chưa
Mây vần vụ chuyển bóng mưa về rồi.
Giọt đời dột xuống hồn người.
Thêm hạt mưa của đất trời lưa thưa.

Ngoài kia biển bấc sang mùa.
Bạn bè một thuở đã thưa thớt dần.
Muốn thăm ai cũng ngại ngần.
Ta về cười ngất đôi lần trong mơ.

ĐOÀN THUẬN


*

 

          

NHỚ QUÊ XƯA


Sương mù phủ đỉnh non cao.
Rừng thông xanh đã xanh bao mùa rồi.
Đồng xa nhớ hạt mưa rơi.
Con thuyền yên nhớ biển khơi trăng đầy.

Dòng sông trôi nhớ bóng cây.       
Xa xôi nhớ dáng Mẹ ngày tha phương.
Một mình nơi phố mù sương.
Nghe thông reo nhớ liễu dương quê nhà.

ĐOÀN THUẬN

 



ƯỚC HẸN


Người đi ước hẹn một chiều.
Mùa thu biếc phủ lên điều tưởng quên.
Ở đâu neo bóng con thuyền.
Ta như trăng vỡ một miền cỏ lau.

Người đi ước hẹn mùa sau.
Ta chiều quê cũ nhớ màu mắt xưa.

ĐOÀN THUẬN

 

 

VỀ LẠi XÓM CŨ

Về đây trong lũng mây chiều.
Mưa rơi thôn lẻ ít nhiều bâng khuâng.
Suối trôi trong dáng ngại ngần.
Người đi đề nhớ đôi lần trong mơ.

Bãi hoang với cát lưng bờ.
Dấu chân chim đã mịt mờ lối xưa.
Một đời ta những nắng mưa.
Lời ca dao cũ đong đưa phố sầu.

Ta về ngã nón qua cầu.
Nhớ trang thư cũ những câu tạ từ.
Có gì đâu một mùa thu.
Ngày thơ ấu đó cũng mù xa thôi.

Giờ ta xóm cũ bồi hồi.
Nghe hoàng hôn rụng cuối trời buồn tênh.

ĐOÀN THUẬN





NHÀ XÓM CŨ

Tìm thăm nhà thôn nơi bưng biền.
Gác cây bên suối rừng tịnh yên.
Thảm cỏ đôi bờ viền cổ thụ.
Một miền ký ức thuở hoa niên.

Đường ngang sân hoa xanh rêu phong.
Thiên lý tàn khô hương phiêu bồng.
Cội mai lặng lẽ bên khóm trúc.
Bàn thiên nhang khói hồn tĩnh không.

Dừng chân đôi khi đời tha phương.
Từ biệt ra đi bao mùa sương.
Nay nhà hoang trống, người xa khuất.
Bên hoa còn lại nỗi buồn vương.

Mong ngày tang thương rồi qua đi.
Đất trọ xóm nghèo nơi biên thùy.
Cùng về nhóm lửa đêm hoa mộng.
Ngờ đâu thăm thẳm đường biệt ly.

Tân Lý,1960
CÁT SỸ

 


VỀ NGANG NHÀ XƯA


Ly gia La Gi buồn mông mênh.
Tôi về tìm đâu ngày bình yên.
Đất đai ngủ lạnh, hoa dại thức.
Hờ hững đường quê, phố lãng quên.

Tôi về còn ai mong đi thăm.
Tôi về lạ lẫm như trăm năm.
Tượng đá vườn cây nhìn ngơ ngác.
Cội trúc hoang sơ tự lên mầm.

Tôi về ngang đây thăm vườn hoa.
Dường như cỏ cây đâu xóa nhòa.
Vàng thu khóm cúc lặng lẽ nở.
Một thoáng hoàng lan vương chiều tà.

Dừng chân đôi giây bên hiên ngoài.
Nghe như ngọc anh hương còn bay.
Hàng cây nguyệt quế thơm hoa cũ.
Bao mùa kỷ niệm còn đâu đây.
         
Nhà xưa tường vôi nay sơn xanh.
Ai nghiêng vai nhỏ ngồi sau mành.
Và bầy chim sẻ trên mái ngói.
Nào hay tôi như một lữ hành.

ĐOÀN THUẬN



Ở QUÊ NHÀ


Biển ru dương liễu đôi bờ.
Sông ru lau lách trăng mơ màng thuyền.
Đời ru người mộng bình yên.
Ta ru ta những đêm huyền thoại xưa.

ĐOÀN THUẬN








NƠI ĐẤT CŨ


Về quê ghé lại đất xưa.
Cảnh đời lạ mắt dưới mưa chiều tà.

Từ xa một góc vườn hoa.
Trúc xanh, nhưng cội mai già đi đâu.
Một pho tượng đá nứt đầu.
Ngực vai bụi bám, mặt nhầu rêu phong.

Gió lùa cát đất phiều bồng.
Đôi bờ lộ giới xóm đông phố giàu.
Liền kề nhà cửa lầu cao.
Tiệm hàng khách sạn lao nhao bóng người.
Hè đường, cây kiểng hoa tươi.
Hàng rong quán cóc, tiếng cười tiếng rao.

Khuất đâu ruộng lúa nương rau.
Mái tôn vách đất, hàng rào lũy tre.
Chợ chiều chợ sớm vắng hoe.
Bến chờ khuất dạng chiếc bè sang ngang.

Cố nhân khẩn đất khai hoang
Cư dân bản địa rời làng tha phương.
Chỉ còn thoáng bóng gió sương.

ĐOÀN THUẬN


 

TÌNH QUÊ


Trăng hồn nhiên rụng sau non.
Ta sinh ra để làm con đất này.

Biển mùa đổ nắng đầy tay.
Ta rong chơi những tháng ngày bé thơ.
Đồng chiều rạ phủ đầy bờ.
Nghêu ngao hát với bài thơ đất trời.

Ru buồn tiếng Mẹ à ơi.
Ta thiêm thiếp ngủ trong lời ca dao.
Giếng thơi ngụm nước ngọt ngào.
Tình quê mẹ đã thấm vào thịt xương.

Ta về, tóc rối viễn phương.
Nôi xưa ru mộng bình thường, vậy thô

ĐOÀN THUẬN


 

*

 

XA XỨ

Cuối đời xa xứ ra đi.
Hồn thiêng đất mẹ đạo nghì trên lưng.
Buồn vui thả gió qua rừng.

Giờ nơi phố lạ người dưng.
Bạc phơ mái tóc chưa ngừng lãng du.
Lần mò về cõi thiên thu.

ĐOÀN THUẬN

 

 

NHỚ QUÊ.

Bao năm lưu lạc xứ người.
Vẫn thầm lặng nhớ nụ cười nhà quê.
Hồn nhiên chất phác mụ mê.

Vẫn mong có một ngày về.
Dù đời bầm dập não nề đau thương.
Nhớ em nhớ mẹ lại buồn.

ĐOÀN THUẬN.




MÁI XƯA và TÔI

Nhà xưa còn nguyên vùng ký ức,
dù đã khuất vào xuân xanh,
mái cành nôm, liếp lá thưa, ngày bấc lạnh.

Bao mùa đi qua cánh đồng trước ngõ,
tôi mót lượm gié lúa bỏ quên trong đầm,
nghe tiếng hát mùa xa thơm mùi rơm rạ,
lời ca dao còn đọng tháng năm.

Một con thuyền ngủ xa xăm,
dưới bờ cây những mùa mưa nắng.
Người giặt áo bên sông, lặng thầm về đâu,
tiếng cười rung bóng nước,
chiều lắng buồn sông sâu.

Tôi về đây một ngày hoa cúc,
buồn vui thinh không như hương cỏ lau,
khi được ngủ quên bên thềm trăng cũ.

Mây trắng bay cao, niềm xưa gió thoảng.
Đường thôn hoa dại nở đầy.
Đâu cần nhớ chi mấy mùa lưu lạc.
Hương trời đâu đây.

ĐOÀN THUẬN




.






tranh của Abram Arkhipov



ĐOÀN THUẬN
một du tử
___________________________

TRẦN CÁT TƯỜNG




         Đoàn Thuận vào đời tại làng Tân Lý, nơi Cha ông làm lý trưởng một thời. Trong ký ức bé thơ của ông, nơi ông sinh ra là một ngôi nhà cổ với tường vôi trắng mái ngói đỏ trong vườn cây ăn quả và nhìn ra hướng mặt trời mọc.

                 
Trong vườn cây lâu năm.                         
Nhà Mẹ hướng ra mặt trời mọc                                                        
Một cây nguyệt quế thơm.

          Năm 1946, Pháp nhảy dù xuống Đồi Dương, chiếm ngôi nhà làm đồn lính trấn giữ một vùng rừng biển mênh mông. Dân làng táo tác tản cư vào Láng Đá, trốn sâu vào rừng Dinh Thầy và Cha ông đã qua đời trong năm loạn ly ấy. Từ đó, ông xa Mẹ xa làng theo Cô Dượng trôi dạt về phía nam La Gi. Cũng từ đó, ông như một du tử, một đứa con đi xa luôn nhớ mong về quê nhà.                     

Có lẽ phận đời tôi phải như thế                     
Vừa lọt lòng Mẹ, đã xa Mẹ, lưu lạc bên trời          
Chiến tranh đi qua bể dâu đời ly tán.                      
Cha muộn phiền khuất núi về xa xôi.

          Suốt chín năm tản cư, tuổi thơ ông trôi dài qua bưng tràm Động Chú, rừng già Sao Cháy, nương rẫy Phò Trì, ruộng vườn Cù My, xóm chài Bến Lội, Suối Muồng trong xanh, Bãi Tàu cát trắng, Bàu Sen thơm hương …

Ngày ấu thơ trôi theo những cánh rừng
Lá thu rụng vàng phía sau lưng
Tôi đâu dám ngoái nhìn đôi xóm mạc
Đâu thể quên cuộc chia tay nơi miền bưng

Lủi thủi qua ngang nhà ai bến lau thưa              
Lời đồng dao miên man miền núi xưa           
Mái cành nôm đong đưa ru nhịp võng               
Lòng tôi buồn nhìn tím sắc hoa mua.                

          Năm 1954, Ba Nuôi ông về Cái Bè nhận ngôi nhà của dòng họ để lại và định ở tại đây lâu dài. Dù được dưỡng nuôi đùm bọc trong tình thương của cô dượng mà ông yêu quí như ba má, ông vẫn không quên được những ngày ấu thơ bên Mẹ. Ngay sau đó, ông về lại Tân Lý tìm thăm mẹ. Chiến tranh đi qua, họ hàng ly tán, ngôi nhà xưa thành đống gạch vụn. Mẹ ông ở nhờ nhà một người dì, đào chang chép hái sâm cát, sống qua ngày.

           Ông xin phép Ba Má ở lại Tân Lý một thời gian, chăn trâu mướn để phụ Mẹ dựng căn nhà lá trên nền cũ đất xưa.

Lưu lạc bao năm con về đây.
Thương biết bao nhiêu dáng Mẹ gầy.
Mái lá nghiêng che đời khốn khổ.
Tóc Mẹ ngày nào trắng như mây.

Gió bấc lạnh đầy sau liếp thưa
Chăn đơn áo vải cho qua mùa
Bếp chiều quạnh quẽ thêm tro bụi
Than củi vô tình trước nắng mưa.

Mẹ đón con về bên bờ hoa.
Thương con thơ dại mắt lệ nhòa.
Nước trầu đỏ quệt ngang tiếng khóc.
Thấm tận hồn con nỗi xót xa.

         Cuối năm 1955, Ba ông bị bắt bị đày ra Côn Đảo. Má ông quay về Bình Châu làm thợ may sống cô độc qua ngày. Ông đành từ biệt Mẹ ra đi, về lại xóm nghèo Láng Găng. Một lần nữa, ông như một du tử trôi nổi theo dòng đời.

Chưa kịp về tạ ơn khi Ngoại đau
Lại giã từ quê hương, thương Mẹ bạc mái đầu
Đường đời mải miết bao bờ bến
Những dòng sông, con phố, những chuyến tàu

           Nhiều năm sau, Má ông về La Gi, còn ông tìm mọi cách lên tỉnh vào thành để tiếp tục con đường học vấn. Ông làm nhiều việc, xuôi ngược nhiều nơi và càng lúc càng xa thêm quê mẹ, càng trôi dạt về phương Nam. Từ Bình Châu ông lên Bà Rịa học đệ thất đệ lục, vào Saigon học đệ ngũ đệ tứ, quay về Bà Rịa theo ban tú tài, lại vào Saigon học Đại học Văn Khoa, Đại học Sư phạm.

Tôi vắt kiệt tuổi thơ khờ khạo kiếm sống        
Đánh đổi từng giọt mồ hôi nuôi nấng ước mơ  
Cạn khô nước mắt bao đêm thầm nhớ Mẹ        
Quay quắt qua ngày lủi thủi trên dặm đường xa . 

Đôi khi co ro sân ga đêm, thẫn thờ bến đò muộn   
Dù chẳng có ai để chia tay, để mong chờ          
Đường ray sắt vào âm u, còi tàu nghe xa hút       
Tiếng gọi đò từ muôn xưa vang vọng mơ hồ.

            Năm 1969, ra trường, ông lập gia đình và nhận nhiệm sở Hà Tiên, miền biển cuối đất nước, biệt mù quê nhà. Hà Tiên cũng là quê mẹ của thi sỹ Đông Hồ, của du tử Lâm Tấn Phát. Khi đến đây, ông cùng Nhóm thân hữu Hà Tiên tổ chức giỗ đầu cho Đông Hồ, vì gia đình Thi Sỹ sống nơi đất Sài Gòn. Còn du tử Trần văn Thuận xa quê mẹ La Gi tha phương đến đây cầu thực.

           Thập cảnh Hà Tiên thơ mộng không làm ông nguôi nhớ “La Gi ngàn xanh” của ông. 
            
La Gi xa ngàn dặm lí.                                   
cuối nơi mây trắng bay về                               

ngút mắt ngóng tìm làng cũ                    
chìm trong khói sóng chiều quê.

       Và càng làm ông nhớ Mẹ da diết.                                 
Ta nhớ hoài dáng Mẹ,                         
Gầy guộc chiều bên nương                          
Tóc trắng bù trong gió                        
Còn ta giờ tha phương.                     

         Năm 1973, ông chuyển nhiệm sở về Bình Tuy để sống gần Mẹ, gần Ba Má. Trong năm này, ông đưa hài cốt Cha ruột từ gò Bà Nghèo về đất thánh Tân Lý, yên nghỉ bên cạnh ông bà nội. Tiếp theo, ông mua đất ở Tân An và dựng một ngôi nhà với tường vôi trắng mái ngói đỏ trong vườn cây ăn quả mang hình ảnh ngôi nhà của Cha Mẹ ở làng Tân Lý xưa mà chiến tranh đã làm vỡ tan trong miền ký ức:                                             

Ngôi nhà Mẹ ánh lửa bếp chiều ấm ký ức hoang vu
Ngói âm dương vỡ tan những mảnh vụn kỷ niệm   
Âm thanh ngói rơi xuống tuổi thơ lời ru xưa.              

Tiếng ngói đổ chạm đáy hồn người tha phương.   
Giọt trầu đỏ quệt ngang thềm phố cổ mùa đông. 
Dội lên màu khói lửa nhức nhối tâm tư cô đơn.

       Năm 2003, khi nghỉ hưu, ông bán ngôi nhà cổ ở Tân An, lấy tiền tu sửa, xây kiên cố gần như toàn bộ mồ mả của ông bà nội ngoại, cha mẹ, ba má và người thân tại đất thánh Tân Lý, nghĩa trang Tân An và một số mồ hoang bỏ quên nơi Động Chú, Suối Cát, Sao Cháy.         
      Làng Tân Lý là quê Ngoại, nơi chôn cất bao hài cốt của tổ tiên từ đất Quảng về đây dựng làng lập nghiệp. Vườn cây ăn quả trên đồi Tân An là khu vườn của bác Năm Lá nhượng lại, là nơi tiêu biểu cho vùng đất khai hoang của bao họ tộc, cũng là nơi ông lưu giữ một ít đá cổ ở đất La Gi dưới dạng những bức tượng do ông tạc nên. Do đó, ngôi nhà ngói cũ  trong khu vườn ấy như nơi thờ tự, cũng là nơi vương vấn biết bao kỷ niệm của gia đình ông. .  

Tôi ngồi trước án thư hư mọt,                      
nơi ánh đèn trang sách vợ con tôi,                    
bao mùa học một thời.                         
mơ một mùa hoa mới.

Vách sờn còn treo tờ thư pháp,                         
một câu thơ bỏ quên,                        
trên tượng đá lặng yên,                     
khuôn mặt vàng bụi phủ.

Bao ngày mái xưa buồn vui thức ngủ,                 
nay dưới bóng trăng tà,                   
sương thấm lạnh thềm hoa,              
tôi nghe ấm một đêm tình đất Mẹ.

          Năm 2007, ông từ giã tất cả, về sống với người con trai Út ở Thủ Đức. Cuối đời, ông vẫn như một du tử biệt xứ ra đi, dù rằng Mẹ không còn tựa cửa mỏi mòn mong ngóng đứa con “rong chơi cùng cát bụi”.                                  

Cuối đời biệt xứ ra đi                                       
Hồn thiêng đất mẹ đạo nghì trên lưng                 
Nỗi oan thả gió qua rừng.                             

Giờ nơi phố lạ người dưng                       
Bạc phơ mái tóc chưa ngừng lãng du               
Lần mò về cõi thiên thu.
                           
       
         Sài Gòn xưa là miền đất trọ cũ. Về đây, du tử lần mò hỏi thặm những người bạn thời hoa niên, những người đồng song đồng nghiệp đồng hành thời ly loạn. Tất cả như xa lạ, như khuất sâu trong ký ức u buồn. Còn chăng chỉ là vài nhóm thân hữu già nua phiêu bạt muôn nơi trên không gian mạng.                        

Tôi về đất trọ qua mùa.                              
Tàn tro hương lửa thẹn thùa hôm mai.                                                         
Miên man hoa nở hoa phai.                           
Thu sang lá rụng, đông cài giá băng.                


        Du tử Đoàn Thuận,vĩnh viễn xa Mẹ, lặng thầm rong chơi qua miền ký ức buồn vui của ông.       .          
      
      
Thảo Điền, 2012                            ..
        
TRẦN CÁT TƯỜNG.
       

*

DU TỬ

Xa quê, chạy giặc tản cư.
Vào sâu rừng thẳm, đêm hư ảo buồn.
Cha nằm tắt thở bên truông.
Nỗi đau ly biệt, Mẹ tuôn lệ sầu.

Đời trôi theo cuộc bể dâu.
Nhà tan vườn nát, một màu tang thương.
Tôi như du tử tha phương.
Bao mùa xa Mẹ, xa trường làng xưa.

Dặm trường dầu dải nắng mưa.
Lang thang bến nước liễu thưa sông dài.
Dạt vào rẫy lúa nương khoai..
Nghe chim khách hót u hoài rừng hoang.

Phiêu diêu, gió hú bạt ngàn.
Non sông khói lửa, đôi đàng phân ly.
Rời rừng lần bước kinh kỳ.
Tìm đường học hỏi đạo nghì tổ tông.

Bao mùa, du tử long đong.
Phà ngang, ga xép, phố đông, xóm nghèo.
Cơ hàn, côi cút, gieo neo.
Cầu mong thoát nạn, mang theo mộng lành.
Dù cho số phận mỏng manh.

Rạch Chiếc,1962
CÁT SỸ




MỘT ĐỜI XA MẸ


Đầu đời, xa Mẹ lang thang,
qua rừng, lên núi, xuống làng chài xa.

Từ đồng lúa nước lúa ma,
quê mùa vào chốn phồn hoa phố phường.
Từ lưng trâu đến sân trường,
gót chân bùn đất dò đường bút nghiên.

Giữa đời trong đục ảo huyền,
cô đơn trước nỗi muộn phiền xót xa.
Độc hành bến nước sân ga,
chợ trời xóm trọ, lân la xứ người.

Đôi khi mím chặt môi cười,
nhìn thầm lá thắm hoa tươi rụng rời.
Thênh thang mây trắng xa khơi,
riêng tôi lận đận dưới trời gió sương.

Một đời, cô độc tha phương,
Buồn đau nhớ Mẹ, nhớ thương quê nhà.

ĐOÀN THUẬN


 XA MẸ


Bé thơ  sớm đã quạnh hiu.
Một ta, du tử, bao chiều lang thang.

Cồn xa với bến sông vàng.
Mùa trôi con nước nặng ngàn nỗi đau.
Mây giăng một cõi xa nào.
Đồi hoang cỏ cháy, vườn đào vắng không.

Chim bay về cuối trời đông.
Lời ca dao cũ ru trong điệu buồn.
Qua cầu nhớ thuở quê hương.
Mẹ già tóc trắng gió sương dãi dầu.

ĐOÀN THUẬN




GIỌT TRẦU ĐỎ


Vệt trầu đỏ giọt tháng năm.
Mẹ đi bỏ lại lặng thầm phía con.
Lửa buồn lay lắt trên non.

Con về lần bước lối mòn.
Nôi xưa thuở nọ đâu còn ai ru.
Chỉ còn hương khói âm u.

Mẹ đi về cõi thiên thu.
Lệ rơi nhớ Mẹ, con u buồn nhiều.
Lẽ nào tiếng khóc phiêu diêu.

Nước trầu đỏ giọt thương yêu.
Mong con khôn lớn không hiu hắt sầu.
Dù đời điêu đứng bể dâu.

Quê người đất lạ bấy lâu
Con hằng ghi nhớ lời cầu nghuyện xưa.
Muôn thu tiếng võng đong đưa.

La Gi, 1994
Đoàn Thuận





ĐỜI MỒ CÔI

Vào đời bao trẻ mồ côi.
Nằm trong góc khuất, bên nôi vệ đường.
Gió ru lời nguyện pha sương.
Hoà cùng tiếng khóc thoáng hương đầu đời.

Khác chi một hạt bụi rơi.
Bỏ quên giữa chợ, sân chơi tình trường.
Bơ vơ lưu lạc tha phương.
Biết đâu nguồn cội quê hương họ hàng.

Biết ai sanh đứa con hoang.
Biết ai nhặt trẻ bên đàng bỏ rơi.
Ăn mày chút phận bụi đời.
Cô đơn lặng lẽ không lời tự xưng.

Dưới trời nước lã người dưng.
Tấm thân bèo bọt gìữa chừng tử sinh.
Lương dân tội nghiệp thương tình.
Đôi khi kẻ ác cười khinh nặng lời.

Đành thôi, phận bạc mồ côi.

ĐOÀN THUẬN



 

ĐỘC HÀNH


Người đông, tôi vẫn một mình.
Ồn ào, tôi vẫn lặng thinh cuối trời.
Bút nghiên đèn sách một thời.
Phấn bay trắng tóc, bụi đời đầy vai.

Sớm khuya tiếng trẻ học bài.
Sân trường tiếng trống vang dài làng xa.
Không gian đọng giọt âm ba.
Nghờ như giọt mực rơi nhòa trang văn.

Độc hành lầm lủi dưới trăng.
Tôi tìm đất trọ giữa băng giá mùa.
Vị đời mặn ngọt cay chua.
Cô đơn phận mỏng thẹn thùa một tôi
.

ĐOÀN THUẬN



 

LƠ NGƠ.


Cùng người nhịp bước đường đời.
Quanh co heo hút dưới trời gió sương.
Bên nhau lắng tiếng mưa nguồn.
Rơi trên rừng lá âm buồn mong manh.

Đôi khi lưu lạc độc hành.
Hành trang  lưu bút ngày xanh hạ tàn.
Biệt ly xóm mạc đồng hoang.
Dặm dài cát bụi ẩn tàng nỗi đau.

Bâng khuâng dừng lại bên cầu.
Đò ngang khuất bóng, sông sâu xuôi dòng.
Cánh bèo trôi dạt long đong.
Lục bình lờ lững, rêu rong vật vờ.

Một tôi phận mỏng lơ ngơ.
Mong tìm an tịnh bên bờ điêu linh.

ĐOAN THUẬN

 

 

DU TỬ và CON CHỮ.


Bao mùa ở trọ đó đây.
Phò Trì Xóm Rẫy những ngày bé thơ.
Nghe chim xanh hót trăng mờ.
Nhìn đồi hoa dại, thầm mơ trái rừng.

Giã tử Động Chú miền bưng.
Leo quanh Núi Nhọn, vượt từng Suối Sâu.
Tìm qua Bến Lội Bình Châu.
Trường làng tiểu học tập câu vỡ lòng.

Đi lên Bà Rịa phố đông.
Bơ vơ khờ dại giữa dòng gió sương.
Thầy cô bạn học sân trường
giúp tôi tiếp cận văn chương tú tài.


Sài Gòn tiếp bước tương lai.
Văn Khoa Sư Phạm luyện tài dưỡng tâm.
Dạy tư kèm trẻ nhiều năm.
Tập tành nghiên bút phương châm Thầy Đồ.

Ra trường về xứ Đông Hồ,
Mê âm vọng cổ bên bờ Thuận Yên.
Nơi trường trung học Hà Tiên,
đọc Chiêu Anh Các, ngẫm huyền thoại xưa.

Ba năm dưới bóng nắng mưa
được thay nhiệm sở dù chưa đến kỳ.
Hồi hương đất mẹ La Gi.
Sau lưng bỏ lại thời ly biệt buồn.

Lang thang bên suối cội nguồn.
Cùng hương đồng nội, với luồng gió thu.
Xa rồi đất trọ bụi mù.
Nhớ câu lục bát Mẹ ru thuở nào.

La Gi, 1972
ĐOÀN THUẬN

 

 

 



MỘT MÌNH.


Ta một mình giữa đám đông.
Muôn bàn tay vỗ nhưng không nụ cười.
Tiếng ồn lấn áp tiếng người.

Nghe xa tựa giọng đười ươi.
Như giông tố dập hoa tươi nát nhàu.
Nơi nao lặng lẽ niềm đau.

Đông không đồng điệu bên nhau.
Độc quyền ca tụng, tự hào hoan nghinh.
Dân đen lùi lại làm thinh.

Đó đây lắm kẻ rập rình.
Vỗ tay đâu thấy sự tình điêu linh.
Đâu hay ngụy biện vô minh.

Người đông, ta vẫn một mình.
Đồng hành không hẳn đồng tình, vì đâu.
Cô đơn trước cảnh bể dâu.

ĐOÀN THUẬN




TRÚ NGỤ

Ta nương náu bóng mùa sau.
Từ hương hoa núi, từ màu khói mây.
Từ vườn rau cuối rừng dầy.

Từ nhà mái lá vách cây.
Giường tre, chiếu đệm, bếp đầy tro than.
Bỏ quên, từ độ lang thang.

Từ mùa thu rụng lá vàng.
Non sông chia cắt rời làng xa quê.
Đường trần cát bụi tư bề.

Đời như cõi tạm bến mê.
Người qua đất trọ mua thuê số phần.
Và ta kiếm sống nuôi thân.

Sau mùa lưu lạc lần quần.
Quay về đất cũ vuông sân mảnh vườn.
Ta còn một góc quê hương.

ĐOÀN THUẬN



CÓ LẼ NHƯ THẾ

Có lẽ phận đời ta phải như thế.
Vừa lọt lòng Mẹ, đã xa Mẹ, lưu lạc bên trời.
Chiến tranh đi qua bể dâu đời ly tán.
Cha muộn phiền khuất núi về xa xôi.

Ngày ấu thơ trôi theo những cánh rừng.
Lá thu rụng vàng phía sau lưng.
Ta đâu dám ngoái nhìn đôi xóm mạc.
Đâu thể quên cuộc chia tay nơi miền bưng.

Lủi thủi qua ngang nhà ai bến lau thưa.          
Lời đồng dao miên man miền núi xưa.
Mái cành nôm đong đưa ru nhịp võng.
Lòng ta buồn nhìn tím sắc hoa mua.

Chưa kịp về tạ ơn khi ngoại đau.
Lại giã từ quê hương, thương mẹ bạc mái đầu.
Đường đời mải miết  bao bờ bến.
Những dòng sông, con phố, chuyến tàu.

Ta thầm biết có người tội nghiệp ta.
Cũng tự nhận ra hương phai theo mùa hoa.
Dù chỉ dám mơ một nụ cười thánh thiện.
Khi nhìn mây trôi lờ lững chân trời xa.

Có lẽ nào phiêu bạt suốt trăm năm.
Có lẽ nào trời quên cho một chỗ nằm.
Ta về phủi bụi trang thư cũ.
Tìm đọc lời em trong lặng thầm.

Sài Gòn, 1965
CÁT SỸ

 

 

THÂN CÁT BỤI.


Tấm thân cát bụi dưới trời.
Gió lùa lăn lốc qua đời nắng mưa.

Bụi bay trên cát giữa trưa.
Trong ngày nắng quái nhẹ đưa vào chiều.
Mịt mù bóng phủ liêu riêu.
Pha mờ cỏ dại lớp rêu bên thềm.

Bụi nâu vàng vọt trăng đêm.
Lẫn vào sương muối mờ thêm đường trần.
Thoát từ lá nát bùn phân.
Hanh khô rã mịn buông thân xuống đồi.

Cát nằm dưới suối sông trôi.
Nước lau trắng mặt cát bồi đồng không.
Bay theo luồng gió bềnh bồng.
Rơi trên nỗng vắng, vào lòng biển khơi.

Dù cho đắp đổi xa rời.
Vẫn hoàn cát bụi cõi đời thiên thu.

ĐOÀN THUẬN


 
 
 
*




tranh của Abraham Pether





ĐƯỜNG TRẦN

DU TỬ
____________________________________
Đoàn Thuận




ĐƯỜNG TRẦN và DU TỬ

Xin đừng hỏi về tôi
sao bơ vơ giữa đời,
như người không cha mẹ,
thân dại khờ đơn côi.

Đừng hỏi tôi vì đâu
khổ nghèo từ lưng trâu,
thành gia sư kèm trẻ,
tuổi xanh sớm bạc đầu.

Đừng hỏi tôi vì sao
tình hoa niên úa màu
thầm niệm lời nguyện ước
phận buồn thêm thương đau.

Mùa đi, quê xưa ơi
con đường bỏ quên tôi,
em cần chi sầu nhớ,
tôi lưu lạc bồi hồi.

ĐOÀN THUẬN




ÂM DƯƠNG


Dương âm ấp ủ đất trời.
Mây mưa nam nữ lứa đôi ân tình.
Nguồn cơn nên cuộc nhân sinh.

Địa đàng dưới bóng thiên đình.
Dương trần âm phủ, tử sinh nở tàn.
Trầm luân chuyển hóa tuần hoàn.

Đêm ngày sáng tối, thời gian.
Gần xa cao thấp, dọc ngang dặm ngàn.
Sắc không muôn thuở mênh mang

Phôi thai tạo một noãn hoàng.
Âm cùng dương khởi nhân gian kiếp người.
Ngắn dài tiếng khóc nụ cười.

Cỏ cây héo úa, xanh tươi.
Rừng hoang thú dữ, đất người hiền nhân.
Dương sinh âm tận vô ngần.

ĐOÀN THUẬN





ĐẤT TRỜI

Cõi này biến hóa không lường.
Sắc không sinh diệt vô thường xưa nay.
Núi sông rừng biển trời mây.

Người đời xuôi ngược đó đây.
Bờ hoa sạt lở, phố mây suy tàn.
Loanh quanh bước nhẹ địa đàng

ĐOÀN THUẬN



 

NGỌN NGUỒN

âm dương nguồn ngọn cõi đời
chập chồng duyên kiếp luân hồi vần xoay
từ mông muội đến hôm mai.

tự thân cát bụi hoài thai
núi cao biển rộng sông dài rừng hoang
đất trời âm phủ địa đàng.

diệt sinh sinh diệt hỗn mang
di truyền muông thú đa đoan phận người
tự ban sơ đã khóc cười.

ĐOÀN THUẬN




BỂ DÂU

[thơ Haiku]

Sóng vỗ bờ sâm cát.
Gió tạt đồi dương bay long chong.
Hoa cỏ chợt phiêu bồng.

Nước soi dài dòng suối.
Trôi ngang lau lách bờ đá cuội.
Bồi nên bãi dâu xanh.

Biển tràn qua mặt gành.
Xoáy sâu bỏ dại đầm nước lợ.
Sạt lở cửa nhà nghiêng.

Đò ngang đậu bến thuyền.
Đêm yên liễu rủ che sương hồ.
Ngày mưa mờ bóng núi.

Dâu bể đời cát bụi.
Chuyển dịch luân hồi trong phút giây.
Sắc không một cõi này.

ĐOÀN THUẬN




BỂ KHỔ

Đời như bể khổ mênh mông.
Sóng to gió lớn, mưa dông bão bùng.
Thiên nhiên khắc nghiệt lạnh lùng.
Thiên tai hạn hán cháy rừng băng tan.

Sóng thần địa chấn hoang tàn.
Triều dâng sạt lở bãi ngang động đầm.
Nông dân ngư phủ buồn thầm.
Làng chài xóm ruộng thăng trầm bể dâu.

Trước bao thảm họa địa cầu.
An sinh nhân loại dãi dầu đau thương.
Chiến tranh chính trị thị trường.
Gây bao tang tóc máu xương hận thù.

Lần theo cát bụi âm u.
Cúm sâu dịch tễ phiêu du lây truyền.
Tử vong thương tật ưu phiền.
Thứ dân tị nạn xa miền đất xưa.

Đa đoan tạo hóa trần thừa.
Niềm đau nỗi khổ như mưa lệ sầu.
Rơi dài biển rộng sông sâu.
Luân hồi trầm tịch về đâu kiếp này ?

Gò Vắp, 2021
ĐOÀN THUẬN



CÕI MÔNG LUNG


Thức giấc nhìn ra đêm tĩnh lặng,
Trăng tàn phả tối xuống hoang vu.
Rừng cây gió hú âm mê hoặc,
Núi đá mây che bóng ảo hư.
Phận nọ thân này thời giả tạm,
Duyên xưa kiếp cũ thuở chân như.
Mông lung hoá hiện đời hay mộng.
Ngẫm ngợi niềm riêng giữa mịt mù

ĐOÀN THUẬN

 


SẮC HÌNH


Năm tháng ra đi chẳng trở về.
Thuyền trôi lữ khách mãi say mê.
Xuân tàn hoa hạ buồn hiu hắt.
Thu khuất bờ đông lạnh sắt se.
Cuộc sống như mây vào cõi mộng.
Tình yêu tựa nước vỗ chân đê.
Có không còn mất trong hình sắc.
Một tiếng cười hay nỗi tái tê.

ĐOÀN THUẬN


*



TỪ ĐÓ

Đêm từ lửa cuối hoàng hôn.
Trăng đầu non lạnh từ hồn nhiên lên.
Cõi này cõi nọ ngủ quên.

Người từ cát bụi mông mênh.
Về ngang đời tịnh gọi tên nỗi buồn.
Cho ngàn lá rụng sau truông.

Dòng sông từ đó xa nguồn.
Lời thơ từ đó mang hồn nước mây.
Và ta tự có tháng ngày.

ĐOÀN THUẬN

 


DÒNG ĐỜI

Đời người sinh tử khoảng trăm năm.
Thế sự vần xoay luôn thăng trầm.
Thời gian bình thản trôi mải miết.
Vạn hữu luân lưu dưới bụi lầm.

Gió chuyển mùa màng qua núi sông.
Mây mang hơi nước mưa tầng không.
Lũ tràn sóng vỗ gào giông tố.
Ruộng dâu hóa bể, biển lấn đồng.

Tương phùng ly biệt, người mơ màng.
Sớm nở tối tàn, hoa cỏ hoang.
Một thoáng trầm hương nương theo khói.
Mất còn nhân quả lẽ tuần hoàn.

Nổi buồn niềm vui như sương mờ.
Duyên mỏng phận bèo tựa giấc mơ.
Dòng đời trong đục xa bến giác.
Lá thắm thiên thu trôi lững lờ.

ĐOÀN THUẬN

 

 

ĐỜI NGƯỜI.


Dòng đời chuyển dịch chậm, mau.
Ngày tàn đêm xuống, trời cao đất dày.
Trăm năm tựa cuộc tỉnh say.
Người ta sinh tử họa may ảo huyền.

Mê mờ một mối nhân duyên.
Hoàng hoa lạc lối đào nguyên tuyền đài.
Lần tìm đất trọ sinh nhai.
Cho dù đá nát vàng phai hoang tàn.

Bàn chân dẫm bước quan san.
Đôi tay hứng giọt trăng vàng mộng mơ.
Sông sâu nước lạnh đôi bờ.
Tình xanh lá thắm tóc tơ phai nhòa.

Trầm luân trong cõi ta bà.
Vui buồn còn mất chỉ qua một thời.
Vào đời, tiếng hát ru nôi.
Qua đời, giọt lệ buồn rơi bên mồ.

ĐOÀN THUẬN 




CUỘC LỮ HÀNH


Đơn thân độc mã lên đàng.

Dò tìm đất trọ bên ngàn bể dâu.

Lần theo từng nhịp vó câu.
Núi cao rừng rậm sông sâu thác gành.
Ngựa nhoài sức kiệt lữ hành.
Yên cương bỏ lại bên nhành liễu tơ.

Đường trần cát bụi mịt mờ.
Gót chân bùn đất bám bờ lội mương.
Quẩn quanh lưu lạc dặm trường.
Làng chài xóm rẫy, ruộng vườn bãi dâu.

Sương sa pha bạc mái đầu.
Mồ hôi nước mắt thấm sâu nỗi niềm.
Nhịp đời khác nhịp trái tim.
Phận người mỏng mảnh nổi chìm trầm luân.

Hanh thông qua bóng gian truân.
Cao sang quyền quý đâu thuần an nhiên.
Địa đàng, cõi tạm du miên.
Ghé qua chờ giấc ngủ yên cuối cùng.

La Ngâu, 1972
ĐOÀN THUẬN

 



CHIM CHIỀU
và  LỮ KHÁCH


Chiều hoang đổ bóng chim về tổ,
Lữ khách tìm nơi nghỉ lại đêm.
Núi thẳm rừng xa đôi cánh mỏi,
Thân đơn chốn lạ bước chân mềm.
Đường bay vạn dặm phiêu linh mãi,
Đất trọ không người tĩnh mịch thêm.
Hư ảo chân trời mây viễn xứ,
Mùa trôi bỏ lại mộng êm đềm.

Gò Vắp, năm Giáp Thìn.
ĐOÀN THUẬN

 


XUÂN THA PHƯƠNG


Những đàn chim én đã bay xa.
Vài hạt mai non chuyển sắc ngà.
Sân gạch khách về chân lạ lẫm.
Thềm hoang nhà vắng dấu hài hoa.
Mùa đi luân lạc đâu người cũ.
Xuân đến tha phương nhớ mẹ già.
Cảnh giới vô thường luôn biến dịch.
Chân trời lặng lẽ một mình ta.

ĐOÀN THUẬN



 

 

LANG THANG


Lang thang lưu lạc đôi miền
Đâu nơi đất trọ yên nhiên qua mùa
Nương theo cát bụi gió lùa.

Bão giông sương giá nắng mưa
Cô đơn trước bóng, thẹn thùa bên hoa
Bơ vơ giữa cõi ta bà.

ĐOÀN THUẬN



NGHÊU NGAO

Theo dòng trôi cuộc đổi dời
Bến bờ sạt lở núi đồi hoang vu
Tóc xanh phả bóng sương mù.

Xin làm một kẻ khờ ngu
Nghêu ngao buông mấy lời ru phố buồn
Thả theo cánh gió muôn phương.

ĐOÀN THUẬN

 

*




NẾU NHƯ


Nếu người như hạt bụi kia.
Lắng nghe con dế bên rìa đồng hoang.
Gáy ru sầu buổi thu tàn.

Nếu người một kiếp lang thang.
Tựa như mây trắng nối hàng qua non.
Đôi khi che bóng trăng tròn.

Nếu người hoá thạch bên non.
Nàng Tô Thi khóc giữa còn mất xưa.
Đá mòn không, trước hạt mưa ?

Khi rừng heo hút lưa thưa.

ĐOÀN THUẬN



BÌNH THƯỜNG


Bỏ ta côi cút giữa đời.
Người vui tìm đến chân trời gấm hoa.
Bình thường thôi cõi ta bà.

Gió sương tạm mượn làm nhà.
Mồ hôi bạc áo lệ nhòa bao đêm.
Khổ đau đời tặng nhiều thêm.

ĐOÀN THUẬN



THOÁNG MƠ                       


Hạt mưa nghiêng lạnh trên sông.             
Nghìn thu nước mạch đưa dòng trôi đi.
Đã qua một thoáng xuân thì.

Người đi bóng đổ vân vi.
Người ngồi năm tháng thầm thì sau lưng.
Ta như đang ở lưng chừng.

Lá khô rụng phía sau rừng.
Một bông hoa muộn gởi mừng tuổi em.
Mơ cây rừng núi xanh thêm.

Nếu không ngày chẳng có đêm.
Không người mơ cõi êm đềm mà chi.
Kiếp sau ai có hẹn kỳ ?

ĐOÀN THUẬN





GIẤC MƠ MAI

         
Đất trọ ngày trôi năm tháng tận.
Ta về quạnh quẽ ngóng trời xa.
Đường đời vội vã người xuôi ngược.
Phố chợ ồn ào khách lại qua.
Trẻ dại loanh quanh nơi lớp học.
Thân tàn lụ khụ chốn ta bà.
Mơ mai trở lại miền thanh tịnh.
Trú ngụ bình yên dưới bóng hoa.

Hạnh Thông Tây,2022
ĐOÀN THUẬN



MONG MỘT NGÀY

Mai mong ngất tạnh chim về.
Rừng xanh đồi biếc bốn bề ban sơ.

Bão giông yên ắng đôi bờ.
Nhà xưa vẫn nhớ chiều thơ ngây nào.
Vườn khuya hương cỏ lao xao.
Xin mùa tan tác đi vào lãng quên.

ĐOÀN THUẬN




RU ĐỜI


Biển ru tiếng sóng vô bờ.
Gió ru lau sậy vật vờ liễu dương.
Mây chiều ru lạnh hồ sương.

Ta ru hoa cỏ về nguồn.
Ai ru chiều một khúc buồn vào thơ.
Ta như  khờ khạo mộng mơ.

ĐOÀN THUẬN

 

MỘT LỜI


Một lời hương chợt thành hoa.
Nghe trong tiếng lụa xé tà khăn tang.
Đời trôi theo lớp bụi vàng.

Nỗi buồn gõ nhịp thời gian.
Chuyến xe thổ mộ qua ngang phố dài
Người chờ hóa kiếp một mai.

ĐOÀN THUẬN




LỜI NGUYỆN

Bóng trời che tháp chuông cao.
Lời kinh cầu nguyện đêm xao xuyến lòng.
Mối sầu tưởng đã hư không.

Hương trầm lan toả phiêu bồng.
Nến hồng đâu thấm khô dòng lệ rơi.
Đâu xua được nỗi đau đời.

ĐOÀN THUẬN

 

*



NHƯ KHÔNG


Xa người ta hiểu ta thêm.
Thời gian tan loãng vào đêm mộng hờ.
Hoang vu chết giữa đôi bờ.


Ta như một kẻ dại khờ.
Bỏ quên giấc ngủ bên bờ thinh không.
Bồng bềnh như một con sông.


Trước tình ta chỉ là không.
Nỗi buồn hóa đá giữa mông mênh đời.
Sắc màu lắng tiếng hoa rơi.

ĐOÀN THUẬN




TỰ KHUYÊN 


Thôi đừng tiếc nuối chi nhiều.
Bao mùa sách vở đã phiêu du rồi.
Khuya đầy sương phố chơi vơi.
Lời xưa ước cũ một thời đã qua.

Cuối trời tháng hạ mưa sa.
Con đường phượng nhỏ một ta xa dần.

ĐOÀN THUẬN

 




.
MỘT KHOẢNG LẶNG ĐỜI HOA
_____________________________________________
NGUYỄN TĨNH

                 

            Cũng là một khoảng lặng đấy thôi, một khoảng lặng đời hoa, một khoảng lặng đời người. Trong khoảng lặng của thời gian và cảm xúc, ta thấp thoáng gặp một bóng người đã phai màu thời gian, đã đi suốt cuộc hành trình dài và xa lắm, nay chợt quay về lặng lẽ trong cõi hồi ức.              

Tôi như du tử về quê cũ,                             
thắp lửa chiều lên ấm đôi môi.
                 

           Sẽ dễ cảm nhận thôi, vị du tử ấy giờ như cọc neo thuyền giữa dòng sông trôi.             .

Thời gian trôi mải miết                                 
để mùa thu lá bay                                   
cho dòng suối trôi về xa                                                        

để rồi xê dịch về đâu                                     
cho mùa rớt bão, lạnh buồn lối cỏ                   
và chợt thảng thốt cho phai đời phiêu bồng.     

       Con người của khoảng lặng ấy như từ Đường thi bước ra, thấm đẫm cái mênh mông, lãng đãng, nhưng lung linh sắc hoa vàng cõi tịnh yên. Từng giọt thơ, giọt cảm xúc, chợt rụng xuống, chạm khẽ vào tâm hồn giữa khoảng lặng cõi người.         

       Khách lãng du có lúc trở về một lối cũ, một sân trường vắng, một dòng suối trôi vào cõi sầu miên, nơi ấy lá thu thầm lặng rụng, hoa vàng nở mênh mang.                                               .

       Du tử có lúc về lại mái xưa, đường phố quen, lặng lẽ hát giữa đời, bên em, lặng lẽ góp nhặt thần âm cho đình tiền tạc dạ nhất chi mai, lặng lẽ như cội già nuôi mầm nhớ, chờ mùa xuân trở về.

        Tân An, 2001.                                  
        NGUYỄN TĨNH.




CỎ HOA và DU TỬ

Du tử bé con rời quê nhà,
ngu ngơ thơ thẩn dặm đường xa,
lần bước làm quen cùng con chữ,
buồn vui lặng lẽ với cỏ hoa.

Từ xóm tản cư, trong rừng sâu,
về làng quê nghèo, trên lưng trâu,
theo hoa học lóm con chữ đói,
bên thềm lớp bụi mái bích câu.

Trường lá cành nôm cạnh đầm sen,
gác cây hoa xoan, thời sách đèn,
quanh mùa hoa nở hương thơm thảo,
đưa đón đi về như bạn quen.

Nằm trong lưu bút ngày hạ tàn,
phượng hồng, huệ trắng, cúc dại vàng,
mắc cở, sầu đâu, bằng lăng tím,
forget me not, dù ly tan.

Lá sen ngày nao thay tờ thư,
đôi dòng ghi nhớ lời giã từ,
khi xa xóm mạc, lìa đồng ruộng,
lưu niệm mang theo đường phiêu du.

ĐOÀN THUẬN




THEO ĐƯỜNG HOA.

Đường hoa dẫn dắt tôi đi.
Sầu đâu bên suối, hoa quì dưới thung.
Dại khờ trước cảnh mông lung.
Âm u rừng rú, chập chùng núi non.

Qua bao sáng tối mất còn.
Ruộng nương đưa đón gót son về đồng.
Hái hoa bắt bướm bên sông.
Giữa mùa lúa nước hương đòng đòng bay.

Giã từ trâu cặp trâu bầy.
Xa dần bưng đước, bãi lầy cỏ hoang.
Lò dò vào cổng trường làng.
Tôi ôm sách vở theo đàng bút nghiên.

Lang thang lưu lạc đôi miền.
Làng chài xóm rẫy, bến thuyền sân ga.
Tôi mơ có một mái nhà.
Bình yên trước cảnh ta bà bể dâu.

Rạch Chiếc,1962
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]




ĐƯỜNG HOA XOAN


Ngày nao đường hoa xoan
hoa đôi khi bàng hoàng
tim tím trong chiều muộn,
rơi rớt khi phai tàn.

Trên đường này em đi,
đôi bờ bao hoa quì
cùng bao hoa mắc cở,
thả lời hương thầm thì.

Đường đưa em qua trường,
bên đồi cây thùy dương,
xoan bay từng cánh biếc
cùng áo tím vấn vương.

Rồi hoa đường hoa xoan
chiều đưa em sang ngang,
tím ngát buồn thương tiếc
tình đầu đời ly tan.

ĐOÀN THUẬN





ĐƯỜNG HOA LƯU LY

Đường hoa lưu ly đi về xa.
Đưa tôi bơ vơ rời quê nhà.
Giữa mùa sương gió miền hoang dã.
Giữa bao hương sắc nơi phồn hoa.

Từ bờ lưu ly đi đôi nơi.
Xuyên rừng, lên non, quanh chân đồi.
Qua đồng, xuống biển, sang phố thị.
Mang tuổi thơ tôi về xa xôi.

Lời hoa lưu ly ngày ra đi.
”Đừng quên tôi” dù đời phân ly.
”Forget me not” khi biệt xứ.
Lòng vẫn khắc ghi tình xuân thì.

Hương mùa lưu ly còn đâu đây.
Dù tôi xa rồi thời thơ ngây.
Nhưng mãi nhớ nhung hương tóc Mẹ,
nhà cũ, làng xưa dưới bóng mây.

ĐOÀN THUẬN



DƯỚI BÓNG HOA VẮP


Đường cây vắp Gò con
đưa tôi về thăm Đoàn,
nơi xóm nghèo Bến Cát
làm nhớ mùa hoa xoan.

Một hàng cây vắp già
che lối nhỏ về xa,
đôi bờ hoa cỏ dại,
hương thơm thoảng chiều tà.

Đôi nhành vắp la đà
đong đưa những đóa hoa
với nhụy hồng cánh trắng
búp non dịu nõn nà.

Lối đi về quanh co
ẩn hiện dưới chân gò
những nương rau luống cải
vài túp nhà lơ thơ.

Mái cũ dưới tàng cây
hoa vắp trắng rơi đầy,
nhưng người xưa khuất bóng
cõi nào nơi chân mây.

Hạnh Thông Tây, 1960
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]



*



NHỮNG QUÃNG ĐƯỜNG.


Tôi từ Tân Lý La Gi.

Xa quê xa Mẹ, ra đi xa ngàn.

Sáu Say, bến nước đò ngang.
Sông Dinh trầm mặc bên hàng liễu dương.
Đưa tôi lần bước dăm trường.
Bé con dưới bóng bụi đường sương pha.

Giã từ đất tổ quê cha
Bơ vơ khờ dại lạc qua xứ người.
Buồn đau dấu kín nụ cười.
Xót xa trước cảnh hoa tươi hoa tàn.

Tản cư qua cánh rừng hoang.
Bàu Dòi Sao Cháy Bưng Ngang Phò Trì.
Xuôi Nam, Xóm Rẫy Cù Mi.
Bình Châu Xuyên Mộc Phước Tuy Sài Còn.

Năm tư, chia cắt nước non.
Ngu ngơ đâu rõ mất còn đục trong.
Học hành, kiếm sống, chơi rong.
Giữa lòng Hòn Ngọc Viễn Đông một thời.

Bảy lăm, thống nhất đất trời.
Lui về dạy học tại nơi quê nhà.
La Gi La Dạ La Ngà.
Sống cùng huyền thoại Hòn Bà Núi Ông.

Nghỉ hưu, tôi lại phiêu bồng.
Lại rời Tân Lý, vào trong Thảo Điền.
Nơi xưa trọ học bút nghiên.
Bên bờ Rạch Chiếc, một miền tạm cư.

Cuối đời còn mấy năm dư.
Ngẫm trong an tịnh thực hư cõi lòng.

Thảo Điền,2014
ĐOÀN THUẬN

 

ĐƯỜNG GIÓ MƯA


Hoa tàn bâng khuâng rơi,

hương nhu thầm bồi hồi,
phong nhụy mùa xanh biếc,
vàng úa trong pha phôi.

Sương sa mù đồi cây,
đâu hay hương theo mây,
về chân trời xa thẳm,
luyến lưu gì phương này.

Con đường về trường xưa,
đôi khi mờ trong mưa,
thấp thoáng bờ hoa dại,
thoang thoảng chút hương thừa.

Người đi qua đời tôi
chia ly buồn không lời,
cánh hoa ép lưu bút
nhạt nhòa giọt lệ rơi.

ĐOÀN THUẬN

 




ĐƯỜNG CHIỀU MƯA


Mưa rơi mờ đường chiều,
như sương mù phiêu diêu
từ khung trời mây nước,
phả lạnh bờ cô liêu.

Mưa thu hay mưa ngâu
ly tan hoa sầu đâu
nhụy phấn bên cỏ dại
cánh mỏng bay về đâu.

Nhành hoa xoan đong đưa
theo mưa phai hương thừa,
tím tái từng cánh rụng,
tiễn đưa rời quê xưa.

Chia phôi đôi con đường
bờ mi sầu tơ vương.
giọt lệ trời lưu lạc
trên tóc người tha phương.

ĐOÀN THUẬN





ĐƯỜNG SƯƠNG MÙ


Ngày vừa sang Đà Lạt trời mù sương,

như phấn trắng bay ngang Hồ Xuân Hương.
như mây bạc bồng bềnh quanh mái phố.
Người đi về ẩn hiện bên vệ đường.

Trời đất lạnh, hơi mây như tĩnh không.
Sương sa mù lảng đảng qua vườn hồng.
Đường hoa đào vòng quanh khu biệt thự.
Mờ ảo bờ cỏ dại nơi đồi thông.

Bao nữ sinh áo trắng Bùi Thị Xuân
dáng co ro sân trường lạnh bâng khuâng,
ôm cặp da áp sát vào lồng ngực,
như mong hơi sách vở ấm lên dần.

Nắng mới lên, sương đọng trên đài hoa,
như lệ buồn trên tay ngày chia xa,
như cánh hoa thầm ép trong lưu bút
dù hương xưa theo sương gió nhạt nhòa.

ĐOÀN THUẬN



*



MỘT ĐỜI TÔI


Đời tôi lang thang khi tha phương.
Đơn côi bơ vơ bao dặm trường.
Gót chân bám đất đầy cát bụi.
Lầm lũi mưu sinh dưới gió sương.

Thư sinh đi qua nhiều sân trường.
Cù Mi La Gi nơi quê hương.
Cái Bè Bà Rịa Sài Gòn cũ.
Từ thôn quê xa lên phố phường.

Làm thân thầy đồ, nhờ đồng lương.
Không còn phiêu diêu trong đau thương.
Ước vọng quay về miền đất tổ
Dưới mái rêu xưa giữa đời thường.

Đôi khi sầu vương theo đường trần
Chia ly thưa dần bao người thân.
Trường làng xóm ruộng vào xa khuất.
Quê người nhớ Mẹ lòng bâng khuâng
.

Thảo Điền, 2014
ĐOÀN THUẬN




VỆT BỤI ĐẤU ĐỜI


Vào đời vấp ngã té lăn.
Đầu u mặt rách, trán hằn vết đau.

Ra đi từ số phận nào ?
Luân hồi nhân quả kiếp sau đời này.
Thân gầy đội bóng nước mây.
Đôi vai cát bụi, bùn lầy gót chân.

Ta tìm đất trọ xa gần.
Đồng hoang phố thị lần quần ngược xuôi.
Mím môi cười nụ ngậm ngùi.
Nghe chim khách hót, buồn vui một mình.

Ai người tâm sự tâm tình ?
Chợ phiên huyên náo, sân đình trống chiêng.
Nơi nao là động đào nguyên ?
Hoa xinh suối mộng non tiên dưới trời...

Vết thương vấp té đầu đời
đã như vệt bụi một thời rong chơi.

Thảo Điền, 2014
ĐOÀN THUẬN




NHỊP SỐNG



Đời người dài ngắn mong manh,
như sương phả lạnh ngoài mành đêm khuya.

Sum vầy nhen nhúm chia lìa.
Mất còn một thoáng đầm đìa lệ rơi.
Sơ sinh nhè khóc chào đời.
Trẻ trung hoạn nạn chợt rời nhân gian.

Cung đình rồi cũng điêu tàn.
Vinh hoa phú quí huy hoàng mãi đâu.
Tóc xanh  sớm muộn bạc đầu.
Niềm vui lẫn khuất mối sầu một mai.
Đôi khi ngày ngắn đêm dài.
Dung nhan diễm lệ tàn phai một chiều.

Chợ đời lắng phút cô liêu.
Đám đông xa lạ, quạnh hiu một người.
Âm thanh ca tụng reo cười.
Dường như có tiếng đười ươi lạnh lùng.

Phận người trầm mặc mông lung.
Đổi thay nhịp sống chập chùng nhân duyên.

Gò Vắp, 2022
ĐOÀN THUẬN




BƯỚC ĐỜI


Vào đời dò dẫm bước đi.
Người ta theo tiếng thầm thì bến mê.
Gió bay cát bụi tư bề.
Mây Hàng như vuốt tóc thề mưa Ngâu.

Dừng chân trước cảnh bể dâu
Một vùng biển biếc chuyển màu ruộng xanh.
Cây dâu bám rể đầu gành.
Con tầm lựa kén nhả mành tơ duyên.

Sông xuôi nước tách đôi miền.
Bờ quen bến lạ con thuyền sang ngang.
Âu Cơ cấy lúa đồng hoang.
Lạc Long cất lưới cá đàn câu khơi.

Dù cho vật đổi sao dời.
Trong lòng an tịnh, bước đời thong dong.

ĐOÀN THUẬN



BƯỚC CHÂN XA GẦN


Bước chân dài trước con đường.
Bước đi, bước mãi dặm trường sẽ qua.
Dừng chân, đoạn ngắn hóa xa.
Thường khi dồn bước bôn ba đường trần.

Đường nào xa tít cũng gần.
Dặm dài lại ngắn, nếu lần bước đi.
Lối mòn đứt quảng phân ly.
Cầu tre lắt lẻo ngại gì ngả nghiêng.
Sông sâu chia cắt bến thuyền.
Chuyến phà cầu đúc nối liền đôi bên.

Đường đời lắm lúc gập ghềnh.
Gót chân mềm mại dẫm lên đá mòn.
Bàn chân một thuở bé con.
Bước lên từng bước chon von dốc già.

Bước chân trong cõi người ta
dài hơn mọi nẻo ta bà bâng khuâng.
Những ai lẩn thẩn ngại ngần
sẽ xa bến giác, khó gần bờ yên.

Thảo Điền,2014
ĐOÀN THUẬN




QUA ĐƯỜNG TRẦN


Lắng nghe nói ít nhìn nhiều.
Tự thân hiểu được đôi điều thực hư.

Đời thường hai mặt bù trừ:
vui buồn sướng khổ, thiếu dư mất còn.
Ai người bội bạc sắt son,
dù cùng hẹn biển thề non chung tình ?

Đôi khi lặng lẽ làm thinh.
Ít nhiều thiện ác chính mình nhận ra.
Đục trong giữa cõi ta bà.
Nghe gì tiếng hót tụng ca ngọt ngào.

Thấy đâu hoa cũng buồn đau
khi hương sắc nhạt trước màu thời gian.
Dường như đá cũng bàng hoàng,
khi thân nứt nẻ, cuội hoang dã mòn.

Thầm mong lòng bớt héo hon.
Bước chân mềm mại qua con đường trần.

ĐOÀN THUẬN





*


 HOA ĐẦU ĐỜI

Bên hoa hồn nhiên cùng rong chơi.
Khi trên sông xanh, đò ngang trôi.
Khi qua đất trọ, tìm nơi ngụ.
Khi vào ga truông, lòng bồi hồi.

Bên hoa thư sinh quanh sân trường.
Trường làng nhà tranh nơi quê hương.
Trường tỉnh mái ngói trong phố thị.
Sách vở bút nghiên lấm gió sương.

Bên nhau buồn vui mùa hoa xoan.
Trang thư lưu hương ngày thu vàng.
Tâm tình mong ước niềm chung thủy.
Dù đời trắc trở cách quan san.

Mùa đi, lưu ly sầu đâu rơi.
Màu hoa phôi pha buồn không lời.
Tôi chiều nguyệt quế đêm dạ lý,
Dưới hoa, tưởng nhớ hoa đầu đời.

An Hội,1964

CÁT SỸ



HOA NIÊN

1.
Em như hoa đến bên đời,
giấu trong áo lụa một thời trăng non,
lẫn hương ngây dại trong hồn.
Yêu hoa, tôi gửi nụ hôn đầu đời.

Hồn nhiên em đến dạo chơi.
Hồn nhiên hoa nở hoa rơi mấy mùa.
Hồn nhiên hương thấm vào xưa.
Hồn nhiên sương gió vui đùa thường khi.

Qua vườn lặng lẽ em đi.
Tóc tơ một thoáng hoa quì bâng khuâng.
Hoang vu lối cũ đôi lần.
Rêu phong cỏ lấp dấu chân bao ngày.

Tình em tựa một bóng mây.
Gió mùa lộng thổi, sầu đầy đôi nơi.
Dặm đời lầm lủi ven trời.
Tôi mong chậm buổi thu phơi lá vàng.

2.
Dấu hài bụi phủ miên man
Vầng trăng quê cũ khuyết tàn bao đêm.
Nhà xưa bóng đổ ngang thềm.
Mùa đi để rụng lá thêm cõi người.

Tôi về, em đã xa xôi.
Vườn hoang cửa khép, không lời biệt nhau.
Mất còn như giấc chiêm bao.

Nancy, 1968
CÁT SỸ

 

 

MÙA HOA LƯU LY.

Em xa như quên mùa lưu ly
Mai xanh ti-gôn. chiều dã quì.
Lời ru êm ái đêm thiên lý.
Hương mơ hoa mộng buổi xuân thì.

Còn đâu vườn xưa thời gian qua.
Phong lan bâng khuâng ngoài hiên nhà.
Trinh nữ hồn nhiên cánh khép nép.
Nụ hồng thơm thảo đôi môi hoa.

Hương mùa trôi đi về xa khơi.
Tình người như hoa khi pha phôi..
Tím tái màu buồn đóa sim rụng.
Vàng thu sắc nhớ lá úa rơi.

Hoa dù tàn phai dần trong sương
Niềm đau theo ta đời tha phuong.
Nỗi nhớ còn nguyên trong ký ức.
Dưới hoa bên nhau một chặng đường
.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 


HƯƠNG HOA LÝ.
1.
Bất ngờ gặp lại em,
vào buổi chiều cư xá,
bên nhành hoa dạ lý hương.

Vương một thoáng bụi đường
mái tóc hiền vai nhỏ,
chua xót nào không rõ giữa đời em
đã phảng phất nét mi thầm buồn bã.

Em ngồi đó,
như “người yêu bé nhỏ”,
một chút gì gần gụi nhưng xa xăm,
anh nhận ra bằng nỗi nhớ bao năm
giữa khoảng cách chia ly dịu vợi.

2.
Trót bỏ đi, xin em đừng quay lại.
Bởi hoa xưa tàn úa đã lâu rồi.
Bởi tình xanh lá thắm đã pha phôi.
Chỉ xin giữ một tấm lòng thân ái.

Hãy thản nhiên, xin em đừng ái ngại.
Vì đời anh luân lạc đã bao chiều,
mai mốt đây dừng gót giữa quạnh hiu,
nhận cát bụi làm bạn đường chân thật.

Đến thăm thôi, đừng lệ buồn trong mắt.
Cầu mong em cuộc sống mãi bình yên.
Chuyện nắng mưa cho anh được giữ riêng
làm hành lí của kẻ khờ lữ thứ.

3.
Em đi rồi, lưu bút thêm dòng chữ.
Dạ lí hương thơm thoảng trong lòng đêm.

Cư xá Hoả Xa Sài Gòn,1969.
CÁT SỸ


CHIA LY KHÔNG LỜI


Xa nhau không nói một lời.
Dù qua giấy mực hay nơi hẹn chờ.
Làm thinh như thể trong mơ.
Cúi đầu môi mím lặng lờ ra đi.

Đâu hay phút cuối chia ly.
Giật mình, tôi tự thầm thì tiễn tôi.
Quay về góc khuất đơn côi.
U buồn quạnh quẽ bồi hồi nhớ mong.

Nỗi niềm xa xót trong lòng.
Thề nguyền hư vắng, mơ mòng tịnh không.
Tình xưa tựa áng mây hồng.
Thả buông giọt nước thay dòng lệ rơi.

Người xa, xa lạ xa vời.
Vẫn âm thầm mãi không lời thở than.
Ngày đi chỉ thoáng bàng hoàng.
Bỏ tôi lầm lũi dặm ngàn gió sương.

Không lời nuối tiếc vấn vương.
Người quên, quên mất bạn đường ngày xanh.

ĐOÀN THUẬN





XA RỒI


Ta về, người đã xa xôi.
Vườn xưa khép cửa không lời biệt nhau.
Mất còn tựa giấc chiêm bao.

Còn chăng những cánh anh đào.
Mênh mang hương dịu bay chào đón ta.
Như người khách lạ phương xa.

Mất đi lá thắm tình hoa.
Chỉ còn vuong vấn xót xa ưu phiền.
Của ngày đèn sách bút nghiên.

Lẽ nào tâm sự rã riêng.
Âm thầm buông bỏ lời nguyền ước xưa.
Cho bao sầu não đong đưa.

Để ta dầu dãi nắng mưa.
Giã từ quê mẹ bao mùa tha phương.
Đường trần mái tóc pha suong.

ĐOÀN THUẬN




GIÃ BIỆT HOA.

Giã biệt mùa hoa bay
giọt bấc đầy trên tay
con đường qua xóm học
bỏ hoang thời thơ ngây.

Giã biệt cây bên song
gió ru nghiêng hoa hồng
hương thấm lạnh chiều phố
gác trọ buồn vắng không.

Giã biệt ngôi trường xưa
khung trời phượng hoa mưa
thơm mộng hồn giấy mực
hương ước mơ không mùa.

Xin giữ lại một thời
dưới hoa mùa xuân trôi
dù người quên hay nhớ
dù xa xôi muôn đời.

ĐOÀN THUẬN


*



MÙA HOA THƠ NGÂY.

Hiên trời xa ru hồn phong lan,
Dịu thơm hơi may trong chiều tàn,
Tưởng như hương tóc ngày đèn sách,
Ứớc vọng bên nhau đời bình an.

Âm thanh ca dao, lời quê hương,
Bao mùa thơ ngây nơi sân trường,
Cánh hoa phượng ép trang lưu bút,
Như dấu niềm riêng cùng gió sương.

Cho dù phong ba đời ly tan,
Dung nhan màu hoa theo mùa tàn,
Nhưng bao ý nguyện thời thơ mộng
Vẫn mãi trong nhau suốt dặm ngàn.

ĐOÀN THUẬN




MÙA HOA

TÔI.

Bao mùa hoa đi qua đời tôi.
Màu phôi pha phiêu diêu về trời.
Hương thơm thảo lặng vào ký ức.
Dù tha phương luân lạc chơi vơi.

Hoa muồng non, xanh tròn thơ ngây.
Không âm thanh nương theo chân ngày.
Đã cùng tôi chăn trâu xóm ruộng.
Thả vui buồn qua đồi cỏ cây.

Bao sân trường, đường hoa không tên.
Lời Thầy Cô thời xưa đâu quên.
Gác hoa xoan, bạn bè sách vở.
Như còn nguyên dù đời gập ghềnh.

Hoa lưu ly, lưu sầu chia ly.
Lời nguyền xanh mong manh ra đi.
Cánh hoa ép, đôi trang lưu bút.
Vẫn vương mang hương tình xuân thì.

Hoa sơ khai rồi hoa tàn phai.
Tôi rong chơi bên hoa đường dài.
Ghé đất trọ tưởng niệm mùa cũ.
Theo hương trầm lần về một mai.

Thảo Điền, 2008
Đoàn Thuận



HUỆ TRẮNG

TÔI

Lối sỏi nhỏ vòng qua sân thánh đường,
bên bờ hoa lan đất sát chân tường,
những khóm huệ cánh xanh búp trắng nõn,
màu trinh nguyên êm dịu thoảng nhẹ hương.

Tháng Đức Mẹ, người về đọc kinh đêm.
Trẻ đi quanh, già nua dừng bên thềm,
đóa huệ trắng trong tay cùng cầu nguyện,
mong quê nhà yên ả, đời ấm êm.

Những đêm mưa người vắng, huệ bâng khuâng,
hướng lên trời như ngóng tiếng chuông ngân,
gửi hương nguyện về muôn phương sông núi,
về cỏ hoa hoang dại rừng xa gần.

Bao mùa đi phiêu bạt, sống tha phương,
nơi gác trọ sách đèn, những đêm buồn,
thầm nhớ mẹ nhớ quê, nhớ huệ trắng,
nhớ bạn nghèo thuở nhỏ nơi quê hương.

Nancy, 1966
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]




*

 

NGÀY ẤY

Ngày ấy bên nhau cùng dạo chơi.
Nghe hồn thơ dại bao bồi hồi.
Tóc em che nửa bờ vai nhỏ.
Đôi mắt xanh tròn,ướt mộng môi.

Tôi gửi lòng tôi vào mơ hoa.
Mây chiều khẽ động chân trời xa.
Cho bao u uất vào sương khói.
Nắng quái mùa xưa cũng nhạt nhoà.

Xin dấu ưu phiền vào nét mi.
Nụ hôn đầu đó buổi xuân thì.
Trên môi ấm mãi hương trinh bạch.
Nhẹ bước ta vào tuổi tình si.

Tôi chợt nghe mùa xuân dần phai.
Chiều bay mây trắng cuối phương ngoài.
Như thầm mong ước ngày hạnh ngộ.
Cùng lá xanh thơm hương tóc ai.

Đừng đưa ngày ấy vào tiêu điều.
Khi đời còn lạnh biết bao nhiêu.
Người ơi, chớ gợi niềm nước mắt.
Tôi sợ tình ta sẽ phiêu diêu.

ĐOÀN THUẬN




MỘT NGÀY ĐI QUA


Vẫn người một thuở mười lăm.
Hồn nhiên về hát trước rằm sau mưa.
Nụ hồng trong cõi chưa xưa.

Ta về ngồi dưới bóng mùa.
Nghe rong rêu lắng khúc mưa ngoài chiều.
Hạc vàng rụng cánh phiêu diêu.


Bờ nghiêng chia nửa dáng chiều.
Sương lưng vách núi khói xiêu dạt rừng.
Một ngày đi qua sau lưng.

Một ngày quên mất tuổi mừng.
Một ngày yêu dấu người, nhưng lâu rồi.
Một ngày xa lắc, thế thôi.

ĐOÀN THUẬN





MÊNH MANG.


Thuyền nan rời bờ đi xa xôi.
Người ngồi bên sông bao bồi hồi.
Chờ mong bạn xưa về bến cũ.
Chỉ thấy bèo xanh, lặng lờ trôi.

Mây trời soi gương theo sông dài.
Đâu hay lòng người thầm bi ai.
Mỏi mòn trông ngóng về xa thẳm.
Chỉ nghe mưa rơi, giọt u hoài.

Bao mùa lưu ly hương xa hoa.
Hoa quì bên nương chờ sương sa.
Đưa thoáng hương nhu quay về cội.
Chỉ luồng gió bạt, màu phai nhòa.

Đôi bờ trường giang không đò ngang.
Đôi người chia tay luôn bàng hoàng.
Ước hẹn sum vầy nơi đất trọ.
Chỉ bóng khói sương, buồn mênh mang.

ĐOÀN THUẬN




DÒNG THƯ CŨ



Tôi về đọc lại dòng thư cũ.
Vẫn thấy em xưa mãi thật gần,
như mới dạo chơi trên đường vắng.
Nụ môi còn đọng thoáng bâng khuâng.

Em đã xa tôi mùa mưa ấy.
Hoa ép vào thư đã tàn lâu.
Mà sao cứ ngỡ vừa đêm trước.
Trên lá thư em mực đong sầu.

Em đến đùa chơi rồi đi mãi.
Bỏ lại hồn chiều mùa cát bay.
Bến xuân dòng nước con đò nhỏ.
và lá thư phai theo tháng ngày.

Thư em thuở trước hồn nhiên quá.
Kể cả nỗi buồn cũng hồn nhiên.
Em đi nước mắt thành mây khói.
Tôi với Trương Chi một bóng thuyền.
         
ĐOÀN THUẬN



 

THƠ XUÔI VỀ XA      


Mùa thả sương về lũng
bâng khuâng mấy độ hoa vàng
từ dạo lá nhớ mênh mang,
sao Hôm mong ngóng sao Mai
khi lệ nhòa trong mắt người đi cúi mặt.

Nắng hãy lên trên đồi xanh và trong lòng người,
dù rằng bao đêm vẫn gọi tình xa
về phong tỏa giấc ngủ thiên thần,
dù rằng mối sầu vẫn giăng tơ ngất ngây dại khờ.

Đồi thông vi vu lời thơ biếc và gió,
hãy đàn lên khúc nhạc chiều thì thầm
nơi miền thơ ngây ngày cũ.

 

Phố sương đêm hoa đăng
hãy thắp sáng tin yêu cho môi ấm và mắt thôi buồn
cùng suối tóc triền miên trên đôi vai ngoan
theo điệu luân vũ chập chùng.

Niềm vui hãy vỡ òa trong trí tưởng
và lãng quên xóa mờ dĩ vãng vô tư cùng kỷ niệm,
ôi kỷ niệm lung linh như sương đồi sớm ven hồ
phút giây bàng hoàng.

Lối mòn vắng hoang cỏ non nhung mượt xanh
và tiếng chim đưa bước người qua muôn bến mộng
(dĩ nhiên, mùa đông vẫn rớt lại đường tơ mong manh
trong đôi tà áo)

Thời gian cùng giông bão
hãy dừng lại cho nụ hôn bất tận giữa đời
và ta chúc người bình yên trong giấc mơ vừa chớm.

Điệu blues xa vắng miên viễn kia
hãy ở lại cùng ta đêm nay
gót giày ta lặng lẽ trên đường cô đơn muôn trùng.

ĐOÀN THUẬN

 

*



NHỚ LẠI

 

Thả trôi dăm chiếc lá vàng.
Theo dòng kỷ niệm muộn màng về xa.
Khi buồn ngẫm lại đời ta.

Bao năm vắng mẹ xa nhà.
Thư sinh trọ học trải qua nhiều trường.
Khác chi du tử tha phương.

Nhiều người ghét, ít kẻ thương.
Đơn côi dưới bóng bụi đường trần gian.
Đành lòng số phận lỡ làng.

Lang thang đôi chốn địa đàng.
Ngu ngơ trước cảnh phủ phàng đục trong.
Tự mang nghiệp chướng sắc không.

Cuối đời dù vẫn long bong.
Nhưng luôn bên cạnh bạn lòng an nhiên.
Bỏ buông bớt nỗi ưu phiền.

ĐOÀN THUẬN




ÂN NHÂN của TÔI.


Ân nhân giúp đỡ đời tôi
Nay đà yên nghỉ chân trời viễn du.

Riêng tôi giữa cát bụi mù,
Vẫn thầm ghi nhớ thiên thu ơn Người,
Giúp tôi giữ được nụ cười,
Dù bao gian khó ngược xuôi đường đời.

Dượng nuôi từ buổi thôi nôi,
Khi Cha khuất bóng, mồ côi dại khờ,
Dắt dìu từng bước lơ ngơ,
Từ miền biển bạc vào bờ đồng xanh.

Thầy cô hướng dẫn học hành,
Rời lưng trâu, đến tỉnh thành văn minh.
Vở lòng chữ nghĩa câu kinh,
Tâm an với phận thư sinh một thời.

Em yêu  kết nghĩa Bạn đời.
Bên nhau tìm đến khung trời bình yên.
Mùa đi buông bỏ muộn phiền.
Ơn xưa nghĩa cũ ước nguyền khắc ghi.

ĐOÀN THUẬN

 

 

CHO ĐI NHẬN VỀ


Hãy cho đi, sẽ nhận về.
Khi hương hoa dại ngủ mê cuối trời.

Duyên tình dang dở chơi vơi,
Sẽ còn lưu dấu mộng đời trong nhau.
Đôi khi buông bỏ niềm đau.
Tâm như an lạc giữa bao mỏi mòn.

Mưa trời rơi xuống đầu non.
Bao mùa nước chảy đá mòn thác trôi.
Dòng sông xuôi mái về khơi.
Nắng phà sóng nước thành hơi mây dày.

Cho đi giọt nước mưa bay.
Trời xanh nhận lại áng mây bềnh bồng.
Cho đi một chút cảm thông,
Người hiền nhận thấy cõi lòng tịnh yên.

ĐOÀN THUẬN




*




ĐIỀU CÒN LẠI.


Ta còn đây mấy năm dư.
Tay run ghi lại thực hư cõi lòng.
Mực đen giấy trắng bút lông.

Nghe gì, thấy đó, nghĩ nông.
Lời thô, ý vụng, đôi dòng chữ riêng.
Không làm thơ, chẳng huyên thiên.

Hằng mong cuộc sống bình yên.
Non sông đất Mẹ láng giềng an nhiên.
Tự do dân chủ nhân quyền.

Trước nền văn hóa tật nguyền.
Lưu đôi sự thật nhãn tiền nổi trôi .
Nương theo qui luật luân hồi.

Đúng sai vài nét, vậy thôi.
Làm sao thấy hết cuộc đời đục trong.
Ít nhiều cũng một tấc lòng.

ĐOÀN THUẬN

 

 


NGÀY XẾ BÓNG


Ta đôi khi muốn thay chiếc răng mẻ
chợt nghĩ mình còn trụ được bao lâu
đêm thao thức vỗ về lòng an tịnh
mong gió thu thổi bạt vạn cổ sầu.

Chiếc răng giả cho thêm nụ cười đẹp
đâu xua tan hình dạng lệch môi hôn
đâu kéo lại màu xuân mái tóc bạc
cõi sắc không hư ảo cả tâm hồn

Răng lòi xỉ thâm căn trong cốt tuỷ
nụ hoa thơm chuyển dịch tự hạt mầm
hạt bụi nhỏ hoá thân qua bao kiếp
đời buồn vui kỳ hạn khoảng trăm năm.

Răng có thay, phận ta không thay được
trước hiện tồn vạn hữu tựa khói sương
đời trót đã cho ta làm lữ khách
trọ cõi người giây lát lại lên đường.

Răng chưa rụng có khi ta khuất bóng
chưa kịp cười bên hoa một sớm mai.
sao biết được hậu thân ta giả tạm
hay đâu chừng răng duyên giữa môi

ĐOÀN THUẬN

 

*




        tranh của Abrahan Pether



MỘT KHOẢNG LẶNG

______________________________
ĐOÀN THUẬN

 

 

           Nếu một lúc nào đó tôi chẳng còn nghe một khúc nhạc êm đềm, có lẽ đời tôi sẽ chìm vào một khoảng lặng không tháng ngày.                               

          Tôi chẳng rành âm nhạc lắm nhưng khúc nhạc chiều thường đưa hồn tôi vào cõi yên tĩnh mơ hồ. Đôi lần tôi lặng đi, khi điệu sonate nhà bên chao sang căn gác trọ, vào lúc mọi người ra khỏi nhà. Một khung cửa sổ mở ra một khoảng trời xanh. Một cụm mây trắng như không bao giờ trôi. Một thoáng hương của nắng, ở đâu xa, mà ánh sáng chưa khi nào qua được khung cửa, bởi những mái nhà lô nhô che lấp. Đôi con chim sẻ rời khỏi mái ngói, bỏ lại vài giọt âm thanh. Chim bay đi và trả cho tôi khoảng trời bên kia khung cửa, trong ký ức.

            Từ khoảng lặng của buổi chiều yên, tôi nghe được tiếng thì thầm của con chữ, lẫn trang giấy của sách vở ngổn ngang trên bàn  viết và mùi mực của quản bút đã khô. Trong tập lưu bút, đôi khi, chỉ ghi duy nhất một nét chữ trên trang giấy trắng, tưởng chừng trống vắng vô tư, lại đầy ắp nỗi niềm. Nét chữ trên giấy có thể bị nhòa bởi nước mắt hay giọt mưa, nhưng trên trang ký ức vẫn còn nguyên, dù thời gian thản nhiên trôi qua.            .

             Ngày quen nhau, NYBN gửi đến tôi những trang thư, những bài thơ. Tôi khờ khạo tưởng NYBN tự xưng là người yêu bé nhỏ với tôi, với mối tình đầu đời. Sau hai mùa xuân, NYBN  về non yên (ny), yêu một sinh viên Võ bị Đà Lạt, bỏ lại sau lưng khoảng lặng bùi ngùi (bn). Về sau gặp lại, NYBN giải thích nybn chỉ là ngụ ý buồn nhớ chuyện trẻ con. Như thế, Bài thơ thứ nhất, Bài thơ thứ hai của NYBN, của ngày ý bên nhau để lại trong tôi một khoảng lặng ngây ngô, dù tôi đã bị một Sinh Viên Võ Bị đánh nhừ tử vì sự quen biết ấy...

             Vì nhiều lẽ, tôi sống khép kín, ít giao tiếp, không dám quen với những người sang trọng, không dám bày tỏ với ai điều gì, trừ phi có người yêu thương chân tình. Một hôm, Bác Huy, gọi tôi đến biệt thự. Tôi ngần ngại lo sợ vì đáng lẽ tôi phải đến thăm Bác ngay khi đến dạy ở trường Thánh Mẫu, gần nhà Bác. Nhưng khi đến nơi, mọi người tiếp tôi niềm nở, như thể thân quen đã lâu. Dù vậy, tôi vẫn lặng thinh, chỉ nói vài lời khi cần thiết.  Lúc sắp về, Bác tặng tôi một quyển sách với lời đề “Tặng Matlys, Một anh thầm lặng y sơn”, nghĩa là tôi lặng thinh như núi. Từ đó, tôi ký tên bằng ký hiệu này. Nhiều người thắc mắc, riêng Matlys vẫn thầm lặng y sơn, vẫn lưu lại trong lòng âm thanh dịu êm của lời thì thầm.        

          Đường đời mênh mông, phố xá đổi thay, người càng ngày càng thêm đông, càng lạ lẫm, biết tìm ai thật lòng thân thiện, tôi đành nói chuyện với chính tôi, qua cỏ hoa, qua con chữ. Trên lối về xóm cũ, trước mặt tình cờ rơi chiếc lá vàng khô, âm thanh vang nhẹ khi  thả xuống mặt đường. Trên mặt lá, con sâu không tên đã chạm nên vòng tròn. Vòng tròn như số không, thông báo “không bạn”, “không em”, “không còn ai quen” nơi phố xưa. Tôi nhặt chiếc lá ép vào giữa hai trang lưu bút như ép vào trang giấy một khoảng lặng, nhưng không ép được âm thanh lá rơi. Thời gian thản nhiên trôi, người say sưa rót chén ly bôi. Tiếng rơi giọt rượu hòa cùng tiếng rơi nước mắt, như rơi giọt buồn..                    
    

           Trước bao điều miên man, tôi tự nghe khúc nhạc trái tim, được hòa điệu cùng nhịp tâm tình, trong khoảng lặng, dù đời phân ly. 

                ĐOÀN THUẬN

 

 

MỘT ĐOẠN ĐƯỜNG.


Đôi khi chung một dặm trường.
Đi qua sông núi phố phường đó đây.

Trước bao sóng gió nước mây.
Nương nhau đối diện tháng ngày phiêu linh.
Buồn vui chia sẻ tâm tình.
Khi hoàng hôn xuống, lúc bình minh lên.

Thế rồi xa vắng buồn tênh.
Mỗi người mỗi ngả lênh đênh bên trời.
Một trang giấy trắng không lời.
Đâu ghi kịp nỗi bồi hồi vấn vương.

Bên nhau chỉ một đoạn đường.
Theo từng bước mỏi đoạn trường phân ly.
Phút giây kẻ ở người đi.
Bỏ quên ước hẹn “cùng vì tương lai”.

Đồng hành sát cánh kề vai.
Nhưng không đồng thuận đường dài lứa đôi.
Đồng song học hỏi trau dồi.
Nhưng không đồng điệu theo hồi ức xưa.

Dưới trời dông tố nắng mưa.
Đường đời xuôi ngược sớm trưa đổi chiều.
Lẽ nào người mãi phiêu diêu.
Trăm năm một khắc quạnh hiu cuối cùng.

ĐOÀN THUẬN

 

 

 

MỘT QUÃNG NGẮN.


Đường đời kỳ hẹn dài bao năm.
Đi về hoàng hoa bao thăng trầm.
Cũng chỉ bên nhau một quãng ngắn.
Rồi chợt hư hao dưới bụi lầm.

Thơ ngây hân hoan buổi hoa niên.
Nụ môi lời yêu lỡ ước nguyền.
Thoáng chốc phôi pha tình mây nước
Theo gió xuân thu lạnh một miền.

Người tặng niềm vui cùng nỗi đau.
Hành trang thiên lý lắm sắc màu.
Tôi đành yên phận trong sương khói.
Cho giọt tình buồn khô cạn mau.

Dưới hoa tôi trọ trong phút giây.
Hương vương nếp áo, mưa bụi bay
Sỏi đá cỏ cây tạm bầu bạn.
Chờ khi từ biệt chốn lưu đầy.

Nancy,1967
CÁT SỸ
ĐOÀN THUẬN





MỘT NGẢ ĐỜI

Anh và tôi, dường như, loanh quanh.
Lên non qua rừng về sông xanh.
Nhìn hoa tàn nở nghe chim hót.
Chung đường chưa hẳn đã đồng hành..

Anh từ gia đình cha làm quan.
Tôi từ lưng trâu thân cơ hàn.
Phần số trầm luân cùng dâu bể.
Anh người giàu có, tôi lang thang.

Rong chơi lơ ngơ đôi cung đường.
Đầu đời thơ ngây nơi quê hương.
Rồi anh lên phố làm quan lớn.
Nối nghiệp cha anh sống đế vương.

Sau mùa thư sinh, khi ra trường.
Tôi làm nhân viên, nhờ đồng lương.
Gần gụi bút nghiên nơi làng cũ.
Mong được bình yên giữa đời thường.

Đường qua trăm năm đâu còn dài
Vàng son dung nhan rồi tàn phai.
Tôi, anh, mỗi người đi mỗi ngả.
Chỉ thoáng găp nhau nơi trần ai.

ĐOÀN THUẬN



*




MỘT CUNG ĐƯỜNG.


Bên em chỉ một đoạn đường.
Từ bờ ruộng cỏ đến trường làng xưa.
Dưới nhành dương liễu đong đưa.
Dìu nhau từng bước sớm trưa đi về.

Bút nghiên đèn sách mọi bề.
Xẻ chia học hỏi bên lề phổ thông.
Thầm mong chung một tấm lòng.
Kề vai góp sức đồng song đồng hành.

Một thời trong trắng mong manh.
Ước mơ thơ dại mộng lành về đâu.
Mây Hàng thả giọt mưa Ngâu.
Đông sang thu tận bên cầu chia ly.

Em xa tôi buổi xuân thì.
Đi lên phố núi hẹn kỳ tình yêu.
Anh đào bên nớ hoa nhiều.
Thùy dương lá rụng tiêu điều bên tôi.

Một cung đường ngắn, vậy thôi.

La Gi, 1966
Cát Sỹ.
ĐOÀN THUẬN

 

 

 

 

MỘT THOÁNG


Gặp rồi xa giữa con đường.
Người xưa khuất dấu, buồn nhường lại ta.
Tình đời tựa thoáng hương hoa.

Bên đời ta chỉ còn ta.
Thương thầm giọt lệ rơi nhòa mắt ai.
Cùng thư ao ước u hoài.

”Một mai ai chớ bỏ ai”.
Sao như lời hát ru ngoài đồng không.
Đong đưa tiếng nấc sầu lòng.

Dòng đời gió bụi lông bông.
Riêng ta du tử chơi rong dưới trời.
Khúc nôi bên mẹ chơi vơi.

Phương nào người mãi xa vời.
Nỗi niềm ngây dại một thời mơ hoa.
Hương nhu một thoáng phôi pha.

ĐOÀN THUẬN





MỘT LÁ THƯ


Thư xưa trao tôi ngày em đi.
Tờ bơ-luya xanh trong phong bì.
Xếp giấy che mờ nét chữ ký.
Ép một cánh mềm hoa lưu ly.

Tôi còn lang thang nơi xa xôi.
Sao em đưa chi thư không lời.
Lẽ nào con chữ tự đánh mất.
Lẽ nào lòng tôi tự chơi vơi.

Thời gian trôi qua sau bao năm.
Trang thư không tên đầy bụi lầm.
Màu xanh bơ-luya sang vàng úa.
Chữ ký nhòe loang như vệt bầm.

Phong thư đâu ghi thêm điều gì.
Trừ màu phôi pha hoa lưu ly.
Dù em quay lại cung đường cũ.
Lời thầm chia tay vẫn thầm thì.

Sài Gòn,1969
CÁT SỸ 
ĐOÀN THUẬN





MỘT BƯỚC QUÊN


Chia tay buồn, mím môi cười.
Gặp nhau vui, mắt lệ người tuông rơi.
Ngỡ gần gụi, ngỡ xa khơi.

Trong thư, chữ dấu ý lời.
Ngoài đời, tình vẫn bời bời xót xa.
Quên một bước, nhớ bao la.

ĐOÀN THUẬN 





  trang của Đỗ Duy Tuấn


 

MỘT NGÓ SEN.

Em về vườn xưa chiều thu phân.
Nương theo đường hoa thăm xa gần.
Ao sen viền cỏ bên khóm trúc.
Ngó tròn búp nõn hương bâng khuâng.

Nơi đây bên nhau thời xuân xanh.
Dâng sen lên cao mơ yên lành.
Vài con chữ chạm trên mặt lá.
Tựa trang lưu bút xanh mong manh.

Hoa tàn pha phôi hương ban đầu.
Mùa đi lưu ly thêm sầu đâu.
Trang sen lưu chữ ngày thơ dại.
Vàng úa nát nhầu dưới mưa ngâu.

Nhà nghèo nương rau thêm hoa màu.
Tía tô rau má bên anh đào,
Hành hương thiên lý sen thầm ngó.
Người xưa tha hương về nơi nao.

Đời khi phân ly khi sum vầy
Hoa buông hương nhu theo mây bay.
Em chợt quay về cung đường cũ.
Tình buồn trầm lắng trong cỏ cây.

ĐOÀN THUẬN





MỘT NỖI NIỀM


Em từng xa vắng nhiều năm.
Bỏ tôi ở lại âm thầm quạnh hiu.
Loanh quanh dưới bóng nắng chiều.
Bên chân trời cũ ít nhiều lo âu.

Một mai em sẽ về đâu,
khi say mê mối tình đầu mộng mơ.
Đường hoa phố núi nên thơ
có đưa em đến bến bờ yên vui.

Bao người lo lắng bùi ngùi.
Thầy cô bạn học đâu nguôi lời nguyền.
Mong rằng đèn sách bút nghiên
giúp em thành đạt, an nhiên ở đời.

Tưởng em hạnh phúc lứa đôi.
Đâu hay tan vỡ chia phôi đau buồn.
Thôi thì, em hãy bỏ buông.
Thả niềm phiền muộn theo luồng gió bay

ĐOÀN THUẬN






MỘT LỜI KHÔNG.


Thình lình em đến thăm tôi.
Bên thềm cư xá, không lời trước sau.
Cầm tay thay một lời chào.
Lặng thinh cúi mặt nghẹn ngào lệ tuông.

Tôi thầm cảm thấy u buồn.
Làm sao thấu hiểu ngọn nguồn bể dâu.
Em như đổ vỡ tình đầu
Chia tay phố lạnh với sầu ly tan.

Hay em sửa soạn sang ngang.
Giã từ bến cũ cùng chàng thương yêu.
Lẽ nào một sớm một chiều.
Mộng đầu duyên phận phiêu diêu mịt mờ.

Tình xanh lá thắm tóc tơ,
Đường hoa xóm núi nên thơ mấy mùa.
Nay em tựa dáng hoa mua.
Tím buồn từng cánh thẹn thùa im hơi.

Vắng xa đã mấy năm trời.
Gặp nhau em chẳng một lời nỉ non.

ĐOÀN THUẬN

 

 

 



MỘT CHIẾC BÓNG


Em về gặp cuối chiều đông.
Tình cờ không hẹn, không mong dưới trời.
Bên nhau nhưng vẫn đôi nơi.
Nhớ ai em vẫn lệ rơi bồi hồi.

Em cần ở tạm bên tôi,
khi người yêu đã bỏ rơi giọt tình.
Dường như, em giữa lặng thinh
gọi tên âu yếm người tình vắng xa.

Còn tôi như một hiên nhà.
Em ngồi ngóng bóng trời xa lạnh buồn.
Anh đào rụng trắng ga truông.
Đà lạt sương phố mờ nguồn duyên xưa.

Tình đầu đọng giọt âm thừa.
Cùng đôi giọt lệ đong đưa trong hồn.
Và như một thoáng môi hôn.
Phai lời ước hẹn, nhạt son sắt lòng.
………
Riêng tôi, một chiếc bóng không.
Đường trần lặng lẽ với mông mênh buồn.

Cư xá Hỏa Xa SG,1969
CAT SỸ
ĐOÀN THUẬN




*

 

MỘT TIẾNG ĐƯỜI ƯƠI


Ganh tôi, anh lại hô hào.
Đánh cho thành thẹo xấu đau cả đời.
Người đau không hẳn là tôi.
Chính cô gái trẻ một thời anh mê.

Cô buồn, đau đớn ê chề.
Đâu còn thiếu nữ đi về trắng trong.
Đã từng muốn chết bên song.
Nhưng dây thắt cổ lại không đành lòng.

Anh quên một giọt tình hồng.
Bỏ rơi cô ấy bên dòng thương đau.
Về nơi phố núi hoa đào.
Trước bao bạn trẻ tự hào đào hoa.

Đâu hay mòn mỏi xót xa.
Người cô yêu dấu vẫn là riêng anh.
Còn tôi là bạn ngày xanh.
Trường làng đèn sách học hành quen nhau.

Lẽ nào trước một nỗi đau.
Im hơi bình thản như bao xác người.
Đánh tôi, có kẻ vui cười.
Thật ra là tiếng đười ươi nhất thời.

Gia Định,1969
Cát Sỹ
ĐOÀN THUẬN


 

MỘT TIẾNG THỞ DÀI.


Đá tôi bắng bốt-đờ-sô.
Mắng tôi bằng những lời thô tục tằn.

Anh cầm gậy sắt hung hăng.
Đập trên đá dưới, nghiến răng chửi càn.
”Đồ thằng mắc dịch nghèo nàn”.
”Cấm không được chạm tay nàng tiểu thư”.

Tôi đâu biết rõ thực hư.
Chỉ lo chống đở đòn nhừ bủa vây.
Dù bầm tím một cánh tay,
Vẫn không đánh trả, thôi ngay giận hờn.
Chỉ tan nát một cây đờn,
Một chân bàn viết tróc sơn nứt dài.

Rồi anh chống nạnh rất oai.
Thấy tôi bình thản nhìn hai chiếc giày,
Một chiếc đế gót đã bay.
Một chiếc rách nát, khoen dây đứt rời..

Tôi mời anh đến ghế ngồi.
Mong nghe dạy bảo đôi lời đúng sai.
Nhưng anh cà nhắc ra ngoài.
Chỉ nghe một tiếng thở dài “trời ơi”.

”Tiểu thư”chợt đến, nghẹn lời,
nhìn anh cầm gậy, còn tôi cúi chào.
Nhìn qua như thấm nỗi đau.
Tay em đầy lệ chạm vào vết thương.

Cư Xá Hỏa Xa SG,1969
Cát Sỹ
ĐOÀN THUẬN

 


MỘT CƠN DÔNG


Dông về gió lộng lá bay.
Bụi mù lối nhỏ đường rày bến sông.
Bọt bèo nước cuốn xuôi dòng.
Đò ngang gác mái, chợ không bóng người.

Nát tan cỏ dại hoa tươi.
Quán ăn im bặt tiếng cười khách quen.
Nhà nhà đóng cửa cài then.
Ngả nghiêng cột điện tắt đèn tối tăm.

Gió gào sét đánh sấm gầm.
Mái tôn gõ nhịp theo âm thanh trời.
Rì rầm nước tạt mưa rơi.
Ầm ì tiếng bão rít lời núi non.

Thường khi, nước chảy đá mòn.
Sau dông vạn hữu mất còn đương nhiên.
Xóm thôn vườn tược láng giềng.
Tang thương trước sự đảo điên đất trời.

Giọt mưa hay giọt lệ rơi ?

ĐOÀN THUẬN

 

 

*

 

 

MỘT THOÁNG HƯƠNG.


Bỏ đi sao lại quay về.
Chuyện xưa tựa một giấc mê muộn màng.

Tôi như chiếc bóng chiều hoang.
Lẫn vào cát bụi địa đàng gió sương.
Bao mùa lưu lạc tha phương.
Dám đâu mơ mộng hồi hương xuôi dòng.

Bên trời bước mỏi long đong.
Thầm mong em được mặn nồng tình yêu.
Nhưng sao, nay gió đổi chiều.
Đưa em về lại cõi hiu quạnh buồn.

Bao điều tôi đã bỏ buông.
Giờ như thêm thoáng vấn vương hương trầm.
Lở về, lở độ ghé thăm.
Xin đừng nhắc chuyện trăm năm vuông tròn.

Ước mong rồi cũng mỏi mòn.
Phủ phàng son sắt mất còn như nhiên.

Cư xá Hỏa Xa SG,1968
Cát Sỹ
ĐOÀN THUẬN

 


MỘT BỜ VAI

Cung đường xưa đưa tôi về bên em.
Nhành thùy dương rơi sương trên vai mềm.
Bao kỷ niệm ngày nào vào sâu khuất.
Chuyện bể dâu đâu biết nói gì thêm.

Im lìm thôi, trong em còn bao điều.
Tình đầu đời ly tan dù phiêu diêu.
Vẫn còn đó nỗi đau buồn thương nhớ.
Đâu thể nào buông bỏ theo gió chiều.

Tay trong tay, sao ta còn hoang mang.
Mùa thư sinh hương yêu đà phai tàn.
Thư ép hoa gởi tôi lời từ biệt.
Như xua đi bao nuối tiếc muộn màng.

Nơi vườn hoa, giờ đây, đâu quen ai.
Người xưa đi xa xôi theo sông dài.
Chỉ còn lại bóng thu vàng lá rụng.
Em và tôi nương nhau một bờ vai.

Sài Gòn,1969
CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

MỘT MÁI NHÀ


Chuyện ngày cũ gọi tôi về.
Cùng bao kỷ niệm bên lề thời gian.
Ngày nao áo vải nghèo nàn.
Thư sinh sách vở trường làng song thưa.

Nay, tôi tựa mái nhà xưa.
Em cần tránh nắng đụt mưa bao chiều.
Không là bến đỗ cô liêu.
Chỉ như cõi tạm ít nhiều bình yên.

Riêng em dấu kín ưu phiền.
Từ lần dang dở mối duyên tình đầu.
Lẫn trong tiềm thức thẳm sâu.
Đôi khi ẩn hiện nét sầu trên mi.

Dại khờ một thuở xuân thì.
Tôi về học hỏi đạo nghì cha ông.
Em xưa như bạn đồng song.
Giờ thêm mơ mộng bạn lòng mai sau.

Mong em buông bỏ buồn đau.
Giữ tâm an tịnh giúp nhau ở đời.

La Gi, 1969
CÁT SỸ
ĐOÀN THUẬN

 


MỘT ÁNH LỬA


Ngày xưa chuyện cũ đã qua.
Nỗi niềm tiềm thức phai nhòa lặng thinh.
Tôi mong được sống yên bình.
Dù thân phiêu bạt, bóng hình đơn côi.

Em nay quạnh quẽ bồi hồi,
Ngây thơ trong trắng một thời còn đâu.
Chỉ thầm phiền muộn buồn rầu.
Đớn đau khi mối tình đầu ly tan.

Cung đường xưa lại bàng hoàng.
Rêu phong thềm gạch, cỏ hoang dại đầy.
Bao nhiêu kỷ niệm nơi này.
Lần theo sương khói gió bay êm đềm.

Tôi đâu cần nghĩ gì thêm.
Em về nhóm lửa những đêm mưa buồn.

Nancy,1969.
Cát Sỹ
ĐOÀN THUẬN





.

tranh của Atkinson Grimshaw





DU TỬ THEO MÙA ĐI
_____________________________________




THEO MÙA ĐI


Đi theo mùa hoa qua đường trần.
Đôi lần lòng tôi thầm bâng khuâng.
Khi hương vương vấn vai đầy bụi.
Bùn đất nhớt nhầy bám gót chân.

Cây trên non cao luôn lao xao.
Hoa bay theo mây về phương nào.
Còn tôi đường rừng vào xóm ruộng.
Dưới bóng đong đưa những buồng cau.

Trầu cau xe duyên trong thinh không.
Hoa mơ hương nhu trôi bềnh bồng.
Gót son thơ ấu thầm nứt nẻ.
Hư ảo mất còn giữa đục trong.

Thầy cô hiền nhân nơi quê hương.
Dìu vai từng ngày qua sân trường.
Giúp tôi xóa dần bao mê muội.
Tu dưỡng tâm an trước gió sương.

Rạch Chiếc, 1962
CÁT SỸ
Đoàn Thuận




GIAO MÙA


Mùa đời tự có tháng năm.
Trầm luân bao kiếp bụi lầm bể dâu.
Thời gian nhuận thấm sắc màu.

Xuân xanh hạ trắng hanh hao.
Thu vàng đông xám mưa mau lạnh đầy.
Tím chiều đỏ lửa sương bay.

Sét na gõ nhịp phút giây.
Mùa đi giao lại đêm ngày tự trôi.
Cỏ cây thức ngủ bên đồi.

ĐOÀN THUẬN




CHUYỂN MÙA

Mùa sang, ngày tháng năm đi.
Cây thêm lộc mới xanh rì núi xưa.
Mây chiều hạ trắng bay mưa
Hiu hiu dưới lũng gió đưa thu về.
Bao mùa gõ buớc bến mê.
Bao mùa đông tận bốn bề non yên.
Mai vàng chợt nở thản nhiên.
Bầy chim én biển về nghiêng cánh gần.

Thay mùa, người chuyển xa gần.
Dưới trời cát bụi, đường trần gió sương.
Đôi khi lỡ bước tha phương.
Lưu vong đất lạ, đau thương trong hồn.
Thuyền tình đậu lại bến thôn.
Mưa hoa làm lệch môi hôn lạnh lùng.
Sang ngang khói sóng bập bùng.
Nỗi niềm mây nước chập chùng nhớ quên.

Chuyển mùa, người cũng lênh đênh.
Thu buồn đông lạnh, hạ rền bão dông.
Xuân tàn hương nhạt bềnh bồng.
Dân đen con đỏ long đong phận nghèo.

ĐOÀN THUẬN



NHỊP MÙA

Gặp chiều trong một dòng sâu.
Nhịp mùa trong gió, bóng màu trong hoa.
Nỗi người trong một nỗi ta

Xuân về trong thoáng đông xa.
Hạ tàn, vàng lá bay qua thu buồn
Ta về ở trọ một phương.

Trong màu hoa còn bao hương.
Trong mùa em, mắt còn vương nét nhìn.
Trên non, mai nở lặng thinh.

Mùa trôi, trôi bóng hoa xinh
Nước mây lưu dấu hương tình cỏ cây.
Hoa tàn hoa lại nở đầy.

Nắng lên nước bóc hơi mây.
Cho trời thả giọt mưa bay xuống trần.
Bốn mùa gõ nhịp bâng khuâng.

ĐOÀN THUẬN

 

NHỊP CỬA


Gió mưa nhịp nhẹ cửa nhà
Sấm rền vang những âm ba cuối trời..

Thanh trầm gợi nhớ xa xôi.
Trống trường như nhịp từng hồi trong tim.
Trang thư ép cánh hoa sim.
Giấy nằm dưới bụi, ý chìm vào xưa.

Sân trường vắng vẻ dưới mưa.
Mùa hè hoa phượng lưa thưa rụng buồn.
Một người ngồi lại ga truông.
Một người tạm biệt về phương trời nào.

Mùa đi sương gió lao xao.
Ngày xanh áo trắng với bao nỗi niềm.
Cuối đời trong phút lặng im.
Nghe ai gõ cửa trái tim mơ màng.

Đã xa rồi cổng trường làng.
Bao thu để rụng lá vàng biệt ly.

Thảo Điền, 2014
ĐOÀN THUẬN




*




BỐN MÙA VẦN XOAY.

Bốn mùa xuân hạ thu đông.
Xuân xanh, hạ nắng, thu phong, đông hàn.
Mai lên đứng bóng, chiều tàn.
Đêm dần vào tối, khuya sang đầu ngày.

Thời gian như thể tên bay.
Đời người sinh tử vần xoay luân hồi.
Bé thơ khóc nhịu bên nôi.
Khụ già chống gậy vào thời lưu niên.

Đời như một giấc du miên.
Chập chờn thức ngủ, dạo thuyền bến mê.
Đục trong thiện ác bộn bề
Thấy đâu nhân quả bên lề hư không.

Tháng giêng, năm mới, xuân hồng.
Thiên thai vẫn một tấc lòng đào nguyên,
Niệm cùng vạn hữu mọi miền,
Như nhiên an lạc theo nguyền ước xưa.


ĐOÀN THUẬN


*


TƯỞNG XUÂN


Màu xuân tưởng núi xanh hơn.
Tưởng mưa bụi lấp được cơn muộn phiền.
Khi xa cách tự đôi miền.

Xin đời đôi phút bình yên.
Cho lòng an tịnh trước nghiêng ngả đời.
Nỗi niềm tự nó chơi vơi.

ĐOÀN THUẬN





XUÂN TÀ MON


Tà Mon hương đọng cỏ vương.
Chậm chiều mây núi khuất đường hoa rơi.

Lần theo nỗi nhớ xa vời.
Sương rừng bay trắng chân trời mênh mang.
Bóng người thưa vắng bên ngàn.
Bếp hồng ánh lửa nồng nàn sau cây.

Tịnh yên bến nọ bờ này
Con thuyền độc mộc chở đầy hoa tươi.
Dòng đưa lá thắm về xuôi.
Cau rừng trầu diếc gấm gùi se duyên.

Mơ xưa ước cũ an nhiên.
Giang san thiên địa lâm tuyền sắt son.
Dinh Thầy, Ngảnh vọng nước non.
Dinh Ông, Động Chú, Tà Mon, Đảo Bà.

Sông Dinh chuyển nước La Ngà.
La Gi cầu nối Hòn Bà Núi Ông.
Gió ru huyền thoại bềnh bồng.
Tà Mon lưu dấu hương nồng gấm hoa.

ĐOÀN THUẬN


*



HẠ

Những mùa hạ đã đi qua.
Cũng qua đi những tuổi hoa mộng rồi.
Ta gom góp nhớ một thời.
Để hoa phượng thản nhiên rơi đường chiều.

ĐOÀN THUẬN





 TRƯA HÈ

Cỏ ôm giấc ngủ chân ao.
Khóm lau nghiêng nắng nhẹ màu khói lay.
Khô khua gió chạm vào cây
Sắc rong dưới bóng hồ đầy hương sen.

ĐOÀN THUẬN





HẠ TÀN

Phố ngoài, đường phượng chia đôi.
Sân rêu lớp cũ để rơi giọt chiều.
Những trang sách đã cô liêu.
Chợt nghe trong trúc hiu hiu hạ tàn.

Chưa qua, chiều đã trăng vàng
Sương giăng mờ những dặm ngàn thôn xa.
Thời gian đi qua đi qua.
Rụng rơi từng cánh phượng và tuổi xuân.

ĐOÀN THUẬN




HẠ CUỐI


Khi ngày hạ đã cuối mùa.
Đường về xóm học chợt thưa bóng người.
Ánh đèn trọ tắt đêm vui.
Mấy khung cửa khép, tiếng cười lặng yên.

Hoa tàn hoa nở một miền.
Ai quên ai nhớ bao phiền muộn kia.
Bờ vui bến lạ đã chia.
Người về xa khuất, người khuya khoắt buồn       

La Gi, 1975
ĐOÀN THUẬN

 

 


*



BÓNG THU


Miền xanh còn một mùa thu.
Nắng hanh lối cát trần phù truông xa.

Người đi quên dấu chân qua.
Để bao chiều lạnh đợi tà dương trôi.
Sông dài soi áng mây trời.
Mang theo bao nỗi bồi hồi cỏ cây.

Vầng trăng con nước vơi đầy.
Đôi bờ vương vấn bóng ngày muộn thu.
Thuyền neo dưới lớp bụi mù.
Từ làn gió núi phiêu du bạt ngàn.

Lá bay rơi lạc gò hoang.
Ngỡ như đấp mộ thu vàng tình tan.
Mùa trôi chuyển đổi địa đàng.
Đông tiêu xuân tận hạ tàn chia ly.

Người đời lạc bước xuân thì.
Quay về cát bụi hoa quì tiễn chân.
Đường xưa lối cũ phân vân..
Sương thu pha bóng bạc dần tóc mây.

ĐOÀN THUẬN

 

HỒN THU

Gửi vào tơ liễu hồ thu.
Thả theo mây lá vàng ru mắt triều.
Khuất về đâu hồn cô liêu.

ĐOÀN THUẬN




GIỮA THU KHÔNG

Xin gom lại bóng trời chiều.
Cho tàn phai nỗi đìu hiu quanh nhà.

Tóc mùa chợt đọng hương xa.
Tưởng người cõi mộng cõi ta một bờ.
Xin riêng giữ phút dại khờ.
Cho quên đi nỗi mong chờ bao đêm.

Ngửa tay hứng giọt trăng mềm.
Nghe nơi tiềm thức thoáng niềm đục trong.
Ta ngồi giữa một thu không.
Bụi ưu tư rót xuống mông mênh trời.

Nụ hoa tàn nở không lời.
Hương bay thoang thoảng bời bời chân mây.
Tình xanh lưu bóng cỏ cây.
Sắc màu lá thắm lắt lay thu vàng.

Người xa cách trở quan san.
Tờ thư cát bụi phủ tràn lời xưa.
Buồn vương đôi giọt âm thừa.
Rơi trong ký ức cuối mùa biệt ly.

ĐOÀN THUẬN




*



ĐÊM ĐÔNG

Đêm đông lạnh giá mù sương.
Từ xa vang vọng tiếng chuông nhà thờ.
Sông dài vắng lặng đôi bờ.
Đôi nhành nguyệt quế cạnh tơ liễu buồn.

ĐOÀN THUẬN




SẦU ĐÔNG

Cây trơ trụi lá sầu đông.
Chim di trốn rét phiêu bồng nơi đâu.
Thuyền neo lạnh bến giang đầu.

Không gian tĩnh lặng buồn rầu.
Non cao đồng rộng một màu sương pha.
Đường rừng vắng bóng người qua.

ĐOÀN THUẬN





*





DƯỚI BÓNG MÂY.


Nắng soi mặt nước, hơi bay
Vươn lên thành những áng mây lững lờ.
Mây Hàng vàng bóng trăng mơ.
Mây đen vần vũ mịt mờ bóng mưa.

Hồ đầy sóng nước hương thừa.
Búp sen cọng ngó đong đưa sương mờ.
Gió đưa từng mảng phất phơ.
Trôi qua rừng núi, thẩn thơ về trời.

Từ làn hơi nước chơi vơi.
Thiên đình buông thả mưa rơi xuống trần.
Địa đàng, vạn hữu bâng khuâng.
Người, vai ướt lạnh đôi chân bùn lầy.

Muôn mùa dưới những bóng mây.
Dòng đời chuyển hóa vần xoay luân hồi.

ĐOÀN THUẬN






HƠI MÂY


Ngang trời áng mây trôi.
Làn mưa thấm ướt đồi cây cỏ.
Từng rỏ giọt lạnh hơi.

Bụi cát bời theo gió
Khói sương buông bỏ xuống rêu rong,
Mây bồng bềnh phiêu bạt.

Bóng tạt nước theo sông.
Suối nguồn dòng xuôi nghe biển hát.
Ru hạt mưa qua đời.

Rụng rời qua xóm mạc
Vườn cây hoa nhạt lá úa rơi
Lặng tĩnh phai hương trời.




KHÓI MÂY


Ngỡ đời heo hút bến thuyền.
Hoa thanh xuân lạc xa miền khói mây.
Giật mình sao ta còn đây.

Dĩ nhiên đâu chỉ một ngày.
Tưởng ta lỡ bước lưu đày nhân gian.
Rơi thêm một chiếc lá vàng.



NƯỚC MÂY
[thơ Haiku]

Tự trời hạt mưa rơi.
Từ áng mây chơi vơi lang thang.
Theo mùa màng nồm bấc.

Thả nước xuống mặt đất.
Tạo hồ đầm ao bưng suối sông.
Biển mặn sóng mênh mông.

Nước ngọt ngào lòng giếng.
Dưỡng nuôi vạn hữu qua biến chuyển.
Giữa cát bụi cõi đời.

Mùa theo thời gian trôi
Mặt nước bóc hơi, nắng hanh nóng.
Đồng khô khốc gió lộng.

Sương khói bóng mây trời.
Luân hồi quẩn quanh thành mưa rơi.
Nước mây cùng một thể.

ĐOÀN THUẬN

                 



DƯỚI ÁNG MÂY HÀNG.



Chân trời mây nước một bờ.
Mây lên từ nước lững lờ tầng cao
Áng mây cùng ánh trăng sao.
Soi trên mặt nước trôi vào trần gian.

Trầm luân trong cõi Thiên Đàng.
Lang thang một áng Mây Hàng thầm trôi.
Tuần hoàn sao sáng đổi ngôi.
Sông Ngân in bóng sao rơi bạt ngàn.

Chiếc cầu Ô Thước bắt ngang.
Ngưu Lang Chức Nữ hẹn sang bến chờ.
Đâu hay giây phút mộng mơ,
Mây đen vần vũ bất ngờ trôi mau.

Mịt mờ che khuất trăng sao.
Đường trần bến mộng một màu tối tăm.
Mưa rơi nước lũ sóng ngầm.
Xóa tan hình bóng trăng rằm ánh mây.

Đất trời vạn hữu vần xoay.
Mây đen mây trắng nhuận thay mây hồng.
Nước mưa ngọt mặn đổi dòng.
Trôi từ gành thác vào lòng đại dương.

Mây mang hơi nước mù sương
Thành mưa rơi xuống muôn phương Địa Đàng.
Như nhiên dưới áng Mây Hàng
Giọt mùa hơi nước Thiên Đàng nhẹ buông.


 ĐOÀN THUẬN

 



GIỌT LỆ MÂY HÀNG


Ngoài hiên rơi giọt sương khuya.
Lạnh buồn như thể bên kia nỗi niềm.
Rêu hoang cát bụi lặng im.
Đâu hay mưa móc trong tim đất trời.

Mây Hàng lờ lững chơi vơi.
Xót xa rừng núi cõi đời hanh hao.
Buông rơi nước mắt nghẹn ngào.
Như mưa phơ phất rì rào lưa thưa.

Như sương đôi giọt âm thừa.
Liu riu trên mái đình xưa mơ màng.
Sương hay giọt lệ dịu dàng.
Vương mang từ áng Mây Hàng trời xa.

Khuya lơ mờ nhạt thềm hoa.
Tịnh yên thoáng bóng sương pha hương trầm.

ĐOÀN THUẬN

 

 

*



HẠT SƯƠNG
[thơ Haiku]

Hạt sương trên lá sen.
Hồn nhiên long lanh như chưa quen.
Dù chung đầm hoang vắng

Sương giọt một chấm trắng.
Dưới nắng loãng tan bóc thành hơi.
Cùng mây Hàng rong chơi.

Trên bầu trời cao lộng.
Hơi sương hơi mây cùng ước vọng.
Mưa lạnh xuống cõi đời.

Lá sen lòng bồi hồi.
Đón hạt mùa xưa, sa mù cũ.
Trong vòng xoay vũ trụ.

Sương lang thang mờ bay
Mưa trời rơi rơi từ hơi mây.
Uyên nguyên hình bóng nước.

Đồng Tháp,1964
CÁT SỸ
ĐOÀN THUẬN



GIỌT SƯƠNG BÊN THỀM



Rêu hoang đón giọt sương mai.
Đêm chưa qua hết hiên ngoài lặng câm.
Đôi đàng lạ lẫm xa xăm.
Bỗng nhiên một sớm về nằm bên nhau.

Rêu nay mềm mại xanh màu.
Dù từng vàng vọt hư hao úa gầy.
Dù từng nhìn bóng sương bay.
Ngờ như một thoáng khói mây bụi đời.

Sương mù theo phận làn hơi.
Đông thành loáng nước ngang trời lêu bêu.
Một luồng gió lạnh nhẹ hều.
Lùa sương lăn xuống khe rêu mượt mà.

Rêu rong không để sương nhòa.
Cùng hương trầm ấm, cỏ hoa êm đềm.
Thân thầm ấp ủ qua đêm.
Nào hay trời sáng bên thềm ngày lên.

Bốc hơi theo nắng bồng bềnh.
Sương đâu còn hạt nằm trên rêu mềm.
Đất trời như cách xa thêm.
Sương tan rêu nát, ấm êm hoang tàn.

ĐOÀN THUẬN 




GIỌT SƯƠNG TAN


Hiên ngoài một giọt sương rơi.
Tan trên mặt gạch thành hơi sa mù.

Nương theo gió sớm vi vu.
Hòa vào làn khói phiêu du qua vườn.
Đâu còn hình dáng giọt sương.
Chỉ còn hơi lạnh vấn vương ngang trời.

Thu vàng lá rụng chơi vơi.
Đông hàn buốt giá lả lơi bụi đường.
Dù bao biến đổi tang thương.
Tưởng như còn đọng bóng sương u hoài.

Tưởng như mây nước thiên thai.
Trời cao tụ lại bên ngoài thời gian
Hay như hạt móc địa đàng.
Buông thầm nước mắt bàng hoàng chia ly.

Tàn phai từ giã xuân thì.
Giọt sương nào cũng ra đi theo mùa.

ĐOÀN THUẬN



SƯƠNG MÙ ĐẤT XƯA.


Sương lam bảng lảng đường chiều.

Đoàn người nghèo khổ liêu xiêu vật vờ.
Dò theo bờ cỏ hoang sơ.
Mong về đất cũ lắc lơ xa vời.

Bao mùa lưu lạc chơi vơi.
Sa cơ lỡ độ, phận đời héo hon.
Bơ vơ giữa mất và còn.
Nương thân xứ lạ mỏi mòn nhớ quê.

Thăng trầm trong đục bộn bề.
Du cư sống tạm, não nề tâm can.
Bao người từ biệt trần gian.
Bao người lâm cảnh gian nan khốn cùng.

Quê cha đất tổ chập chùng.
Trầm hương tưởng niệm, nghìn trùng xót xa.
Vì đâu cách trở quan hà.
Mịt mùng cõi tạm, phong ba đường trần.

ĐOÀN THUẬN



QUÁN MÙ SƯƠNG


Ngồi bên quán gió đồi chè,
Một mình với tách cà phê đen đường.
Ta như khách lạ tha phương,
Thăm miền thơ mộng phố sương anh đào.

Nhớ lời ước nguyện ngày nao.
Trang thư nét chữ theo màu hoa phai.
Người đi xa khuất dặm dài
Còn đây cõi lạnh mù mây mịt mùng.

Dốc mờ đường tối xuống thung.
Một ta khắc khoải chờ lung linh đèn
Chín chiều một mái tóc quen.
Ta thu ta lại để chèn thêm đau.

Buồn thầm từ nọ về sau.

Đà Lạt,1966
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]






*




TRƯỚC GIÓ MƯA
[thơ Haiku]

Khi sông suối mỏi mòn
Gió mưa xoay trở hồn cát bụi.
Hóa thạch đời núi non.

Đá cuội giữa mất còn.
Lăn lóc rã rời vào lòng đất
Lắng nước hồ ngọt mật .

Sen ngó ngất mây Hàng.
Buông bỏ bùn non xuống đầm hoang
Trầm tích hương thanh khiết.

Dù nở tàn sinh diệt.
Muôn hoa cây cỏ nơi lâm tuyền
Mầm mộng thầm se duyên.

Yên nhiên cùng vạn hữu
Muôn mùa mưa nắng luôn trường tựu.
Mơ về cõi đào nguyên.

ĐOÀN THUẬN 



HẠT MƯA

DÒNG SÔNG


Bao tia nước khuất về xa.

Từ nguồn mưa móc bao la cõi trời.
Từ làn mây nước chơi vơi.
Cùng sương tích tụ, mưa rơi xuống đời.

Mưa mù mịt khắp núi đồi.
Nước tràn gành thác thầm trôi qua rừng.
Mạch ngầm lắng đọng nên bưng.
Ao chum ngày cạn, nước lưng đầm hồ.

Bảo bùng lũ quét sóng xô.
Mưa nguồn soi mở đôi bờ dòng sông.
Sông qua rừng thẳm non bồng.
Qua bao làng mạc, cánh đồng lúa non.

Đôi khi sông cạn đá mòn.
Bên bồi bên lở, mất còn đục trong.
Sông xuôi về biển mặn nồng.
Bóc hơi theo nắng phiêu bồng cùng mây.

Trầm luân theo bóng tháng ngày.
Trời cao trả hạt mưa mây cho đời.
Sông xưa đầy nước êm trôi.

ĐOÀN THUẬN



MƯA NGÂU
trên
XÓM NGHÈO.

Mua ngâu phơ phất xóm nghèo,
với bông vắp trắng gió heo may lùa,
trong chiều tím ngát hoa mua,
lập thu tháng bảy đón mùa Vu Lan.

Bàn thiên bên cội điệp vàng,
am mây lư đất khói nhang hương trầm,
chùa xa tiếng mõ lặng câm,
vẫn như tụng niệm thì thầm kinh đêm.

Ước mong quê Mẹ êm đềm
dù đời sương gió đã mềm nắng mưa,
mặn nồng tình cũ nghĩa xưa,
bà con nương tựa bao mùa bên nhau.

Khai hoang ruộng lúa nương rau,
gò cây hoa vắp, rạch hào đầm sen.
chung tay nuôi trẻ sách đèn
cho dù bão tố bao phen dập vùi.

Người đi kẻ ở ngậm ngùi,
xa quê lòng vẫn không nguôi lời nguyền,
đất trời có lúc đảo điên,
quyết chung thủy với tổ tiên Lạc Hồng.

Hạnh Thông Tây, 1965
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 

 

MƯA
qua
đường NGUYỄN DU

Mưa lâm râm qua đường Nguyễn Du.
Hàng me xanh chưa kịp vàng thu
rơi đầy lá bên thềm gạch cũ.
tràn mui xe, chạm nhẹ cánh dù.

Khách trú mưa quán cốc vĩa hè
nghe nhạc nhẹ, nhâm nhi cà phê,
với âm thanh rì rào mái phố,
cùng thầm thì chuyện phiếm đê mê.

Đôi tình nhân dìu nhau đội mưa,
vai kề vai không một âm thừa,
chậm bước về cung đường phố vắng,
dưới bóng cây, nước rụng lưa thưa.

Bao sinh viên trong làn mưa thu,
xe đạp con, theo đường Nguyễn Du,
vào Đại học Văn Khoa, thư viện,
tìm “chữ tài chữ mệnh”, “chữ nhu”.

Gió vi vu đưa lá me bay.
Lời Tố Như ru trang tháng ngày
”Cõi người ta” trong cuộc dâu bể.
Như lệ mùa buồn vương áng mây.

ĐOÀN THUẬN


NẮNG MƯA


Trời đang nắng bỗng rơi mưa.
Sấm gầm lốc xoáy, gió đưa dông về.
Nắng soi rực rỡ sơn khê.
Mưa bay bạt nước tư bề tầng không.

Trong mưa có ánh nắng lồng.
Long lanh từng giọt sáng trong rụng dài.
Trong tia nắng, bóng mưa phai.
Mờ mờ tựa thoáng u hoài sương sa.

Mưa gần đón bóng nắng xa.
Nhạt nhòa hơi ấm nguồn hoa mặt trời.
Lạnh lùng thấm nước đôi nơi.
Đâu hay nóng bức thầm phơi địa đàng.

El Nino chợt bàng hoàng.
Thiên đình nắng cháy, trần gian mưa dầm.
Nắng phơi từng đám bụi lầm.
Mưa lau mặt núi, thêm đầm đìa sông.

Một ta trọ giữa mênh mông.
Giữa lòng cõi tạm sắc không, bình thường.

Gò Vắp, 2023
ĐOÀN THUẬN



 

*



DƯỚI ÁNH SAO ĐÊM.

Sao Hôm cách biệt Sao Mai,
khi sao Vệ Nữ đêm dài du miên.

Sớm mai sao mọc cõi thiền.
Trời Đông lưu dấu tên miền, Sao Mai.
Bình minh khởi sự ngày dài.
Hoàng hôn tắt bóng hình hài hoa thơm.

Một ngôi sao sáng đầu hôm.
Trời Tây lắng tiếng gió Nồm thổi qua.
Sao Hôm mọc buổi chiều tà.
Lung linh trên cõi thiên hà dịu êm.

Tầng cao, Vệ Nữ từng đêm,
thả rơi giọt sáng xuống thềm đại dương.
Đông Tây xa cách muôn phương.
Sao Hôm ngóng suốt đêm trường Sao Mai.

Sao dời vật đổi miệt mài.
Trần gian vạn hữu hoài thai kiếp nào ?
Thiên đình nhấp nháy ngàn sao.
Trời cao đất thấp đậm màu phân ly.

CÁT SỸ



ĐÊM CHỜ


Nắng mưa đã lụn mái đầu.
Lá xanh còn tiếc thương màu núi non.

Tóc tơ đời cũng hao mòn.
Má xương đêm chợt lăn tròn giọt tơ.
Nát xuân thu, mấy sông hồ
Làng xưa nhà cũ bến bờ chia tan.

Thôi xin đời chút muộn màng.
Áo thân tiền sử mấy ngàn năm đây.
Với tang thương một dòng đầy.
Với tàn tích nọ tháng ngày vùi quên.

Nằm đây ngóng đợi mai lên.
Sương rơi nóc phố, sấm rền nơi xa.
Vấn vương một thoáng chiều tà.
Pha vào bóng tối nhạt nhòa ánh đêm.

Trầm hương thấm dịu rêu thềm.
Người buồn nuôi mộng êm đềm một mai.

ĐOÀN THUẬN

 

 

 

CANH KHUYA


Cát chuồi, gió thổi đêm thâu.
Dấu hoa vách đá sắc màu nhạt phai.
Thoắt nghe biển mặn thở dài.
Thoắt nghe hiu quạnh cõi ngoài liễu dương.

Mẹ nghèo gầy guộc bên nương.
Khi đồi khô cháy, ruộng vườn tả tơi.
Cửa sông nay lở mai bồi.
Thuyền nan bỏ bến về khơi xa nguồn.


Chim rừng im bặt cuối truông.
Canh khuya lạnh lẽo sương buông mịt mù.
Mây che mờ ánh trăng lu.
Rì rào gió chướng, lá thu rụng đầy.

Cõi người hoa cỏ ngủ say.
Sao ta thức những đêm dày lo âu.
Buồn xưa lặng lẽ lưu cầu.
Trong hồn khờ khạo, trong bầu tĩnh không.

ĐOÀN THUẬN



*




MỘT ĐỜI TRĂNG


Trăng Non tuổi mới một đêm.
Mù mờ đổ bóng xuống thềm đá xanh.
Vòng cung ánh bạc mong manh.
Dần lên mười bốn trăng thanh lưỡi liềm.

Tuổi trôi từng phút lặng im.
Mười lăm tròn trịa uy nghiêm trăng Rằm.
Bóng hình tối sáng dương âm.
Trăng Tròn sáng tỏa hương trầm hoa niên.

Soi lên hồ hải lâm tuyền.
Sông Ngân lưu bóng trăng huyền thoại xưa.
Hằng Nga lau giọt lệ thừa
Mây Hàng che mặt trăng mưa cuối trời.

Trăng khuya mờ ảo xa khơi.
Trăng treo mòn mỏi không lời biệt ly.
Nửa vầng trăng khuyết lở thì.
Yên nhiên trăng mọc, vân vi trăng tà.

Chưa ba mươi đã trăng Già.
Trăng tàn trăng rụng, trăng Ngà về đâu.
Tuần hoàn trong cuộc bể dâu.
Trăng Non lại mọc ngày đầu tháng sau.

Khuyết tròn, tròn khuyết trên cao.
Non Già cùng với ngàn sao sinh tồn.

ĐOÀN THUẬN

 

 

TRĂNG SOI


Hồn nhiên tia sáng trăng đêm.
Len qua kẽ lá xuống thềm gạch rêu.

Ánh vàng lóng lánh pha đều.
Soi trên lớp bụi như khêu tro tàn.
Lẫn trong tăm tối mơ màng.
Biết bao sinh vật ẩn tàng đau thương.

Tia trăng đâu rõ giọt sương.
Nằm bên nhụy phấn thấm hương hoa tàn.
Âm thầm nguyệt quế dạ lan.
Hoa quì mơ giấc yên hàn lặng thinh.

Trăng treo đỉnh nốc thiên đình.
Chị Hằng chú Cuội thầm nhìn mây trôi.
Trăng soi rọi khắp núi đồi.
Đâu hay trăng gió ru nôi bụi lầm.

Phận duyên vạn hữu bao năm.
Lưu ly dưới bóng trăng rằm trăng lu.

ĐOÀN THUẬN




TRĂNG TREO



Trăng treo lơ lửng tầng không.
Thả bay giọt sáng thong dong lưng trời
Mông lung mờ ảo chơi vơi.
Không gian tĩnh mạc, khung đời tịnh yên.

Lặng thinh phả xuống lâm tuyền.
Ánh trăng loáng bạc đôi miền nhân gian.
Soi đêm giấc điệp mơ màng.
Soi đời vạn hữu địa đàng ngủ mê.

Cung Hằng mây trắng lê thê.
Đôi khi trầm khuất bốn bề mặt trăng.
Đất trời tăm tối đôi đằng.
Trăng đâu soi thấu trầm thăng muộn phiền.

Sương sa phiêu phỏng rã riêng.
Pha mờ ánh nguyệt, ảo huyền trăng thâu.
Tuần hoàn luân chuyển bể dâu.
Trăng đâu treo mãi trên đầu thế nhân.

ĐOÀN THUẬN





TRĂNG LU

Trăng lu mờ ảo lưng trời.
Âm u tịch mịch bóng rơi xuống đời.

Chập chùng bao áng mây trôi
Che ngang ánh nguyệt, pha phôi cung Hằng.
Còn đâu khuôn mặt vầng trăng.
Màn sương loáng bạc phủ băng dáng hình.

Trần gian trầm lắng u minh.
Đường đời tăm tối, lặng thinh bốn bề.
Lần mò từng bước chân quê.
Bao người dò dẫm bến mê bờ đời.

Trăng hoa trăng gió sinh thời.
Ngủ mê, vạn hữu không lời mộng mơ.
Lưu ly trăng tỏ trăng mờ.
Mây đen mây trắng che hờ trăng lu.

Đất trời một thoáng xuân thu.
Trăng sao mây nước vi vu tuần hoàn.

ĐOÀN THUẬN




TRĂNG NƯỚC


Sông xanh lưu dấu mùa trăng
Lắng sâu đáy nước cung Hằng áng mây.
Trăng non trăng khuyết trăng đầy.
Nước trong nước đục nước xoay theo dòng.

Theo mùa trăng nước thong dong.
Nước tràn biển rộng, trăng lồng trời cao.
Sông Ngân hội tụ ngàn sao.
Mong chờ trăng mọc, trăng vào không gian.

Nước từ nguồn áng mây Hàng.
Làn mưa phiêu dạt mênh mang ngang đời.
Tràng giang hồ hải ngàn khơi.
Nước mang theo bóng trăng soi mơ màng.

Qua đêm khuya khoắt trăng tàn.
Dù chưa đầy tháng, tịnh an trăng già.
Người đời bến đổ chia xa.
Trầm luân Nước biếc Trăng ngà thủy chung.

ĐOÀN THUẬN




*


DƯỚI ÁNH MẶT TRỜI.


Mặt trời mọc lúc rạng đông.
Chân mây hừng sáng ánh hồng lung linh.
Đàng Đông mờ ảo ảnh hình.
Nắng mai mở cửa bình minh chào đời.

Nắng lên, ấm khắp phương trời.
Đêm tàn sương nhạt cảnh đời hanh thông.
Đất tròi một cõi mênh mông.
Biển khơi sóng biếc, non bồng rừng xanh.

Ngày trôi, đứng bóng trưa hanh.
Xế chiều nắng quái dỗ dành hoàng hôn.
Mặt trời lặn xuống cuối thôn.
Đàng Tây tắt nắng gọi hồn đêm yên.

Sương mù phả bóng ngoài hiên.
Người đời, khép cửa muộn phiền, ngủ say.
Mọc đàng Đông, lặn đàng Tây.
Mặt trời theo bước đêm ngày luân lưu.

ĐOÀN THUẬN

 


BÓNG NẮNG

Bên thềm bóng nắng lặng căm.
Đâu soi thấu nỗi thăng trầm cỏ hoa.
Ngày trôi nắng nhạt chiều tà.
Trầm hương bảng lảng la đà qua đêm
.

ĐOÀN THUẬN



TIA NẮNG

Mặt trời từ đỉnh cây cao.
Thả buông tia sáng xuống ao sen hồng.
Dịu hương trầm tích tĩnh không.
Nắng vàng mây trắng bềnh bồng phiêu du.

ĐOÀN THUẬN



NẮNG PHAI

Thoáng nhanh ánh nắng qua chiều.
Rừng cây núi đá thủy triều mờ phai.
Lẫn trong cát bụi u hoài.
Phận đời mỏng mảnh cũng mai một dần.

ĐOÀN THUẬN

 


NGÀY MỚI


Nắng lên từ lúc hừng đông.
Hé ra thoáng ánh sáng hồng chân mây.
Báo tin mới rạng một ngày.

Tuần hoàn thời khắc vần xoay.
Đêm tàn bóng tối phả đầy xuống thung.
Ngày sang thắp sáng không trung.

Xóa đi u ám mịt mùng.
Xua tan sương muối lạnh lùng núi sông.
Tỏa hơi nóng giữa mênh mông.

Trên cao mây trắng mây hồng.
Dưới đời nắng sưởi ấm lòng muôn dân.

ĐOÀN THUẬN

 


*


RONG CHƠI 

Đường dài ta mãi rong chơi.
Ngu ngơ như thể chẳng trôi tháng ngày.
Dù cho cát bụi đầy vai,
Sắc không sinh diệt một mai luân hồi.

ĐOÀN THUẬN



CHẲNG HẠN KỲ

Đâu biết khi nao sẽ trở về.
Từ ngày hạt bụi cõng ta đi.
Bên kia tiếng hát ngàn năm lẻ.
Trong cuộc rong chơi chẳng hạn kỳ.

ĐOÀN THUẬN






tranh của Antonio  Fontanesi




CỤ GIÀ và DU TỬ
______________________________
                             Tg.Đoàn Thuận
                            





       Ngay sau ngày “đình chiến”54, Ba tôi rời rừng Sao Cháy, xuống Láng Găng, chuẩn bị về Cái Bè thăm họ hàng sau nhiều năm cách biệt. Tại đây, Ba cho tôi biết Mợ Tư là Mẹ của tôi vì tôi đã xa Mẹ, làm Con Nuôi của Cô Dượng Bảy, từ lúc chưa tròn tháng tuổi. Ba Bảy hướng dẫn tôi cách về La Gi tìm thăm Mẹ.                           
          

        Từ Bến Lội, dọc theo bờ biển, tôi đi về hướng mặt trời mọc. Khi trời tắt nắng, tôi đứng trước một cửa sông, nhìn nước cuồn cuộn chảy ra biển. Bổng nhiên,một cụ già tóc bạc kéo tôi vào chòi lá bên bờ Hồ Tôm và nói “nước lớn, trời tối, chớ dại”. Lúc rạng đông, cụ dắt tôi qua cửa sông và dặn ”đến Chợ Cá Biển, hỏi Bến đò Tân Lý”. Tôi thầm bước đi, không dám hỏi tên cụ, nhưng hình ảnh Cụ Già thánh thiện vẫn ẩn hiện trong trí nhớ khù khờ của tôi.


           Đến bến đò Tân Lý, tôi hỏi thăm về bà Lý Ngự. Ông lái đò giao đò cho một chàng trai, rồi dẫn tôi đến ngôi nhà ngói cũ trong vườn cây ăn quả, cạnh đường xe bò. Tại đây, Mẹ tôi mừng rơi nước mắt khi nghe đứa con trai út, lần đầu tiên, gọi Mợ Tư là “Mẹ”. Ngay sau đó, Mẹ cùng ông lái đò đưa tôi đến một nền nhà cũ, ngổn ngang gạch đá và cỏ dại. Mẹ ôm mặt khóc thầm khi ông lái đò buồn rầu nhắc lại vài chuyện đã qua. Cha tôi đã qua đời trên đường chạy giặc, khi Pháp chiếm ngôi nhà ngói đẹp, trên nền đất này, làm đồn Tân Lý. Giờ đây, Mẹ tôi ở nhờ nhà Dì Năm, chằm lá mướn, sống qua ngày.    .
           Ông lái đò khuyên tôi ở lại kiếm việc làm để Mẹ tôi bớt buồn khổ. Tôi cũng nghĩ như vậy và nhận việc chăn trâu cho anh Năm Cận. Một năm 20 dạ lúa, ăn ở nhà chủ, không phải ở nhà mình. Do đó, khi thả trâu láng, tôi cùng nhóm bạn chăn trâu Láng Đá vào rừng chặt cây săn cắt lá buông…tích trữ từng ngày, để dựng một căn nhà lá trên nền đất cũ cùa Cha tôi, để Mẹ tôi không còn ăn nhờ ở đậu nhà Dì Năm.             .                              

          Hai năm sau, vào đêm trăng mờ, Cụ Già vội nhét vào tay tôi chiếc lá bàng khô rồi biến mất. Trên chiếc lá có bốn chữ “Bảy Bản bị bắt”. Từ giả Mẹ, xa quê, tôi xuống Láng Găng gặp lại Má Bảy. Láng Găng giờ không còn yên tĩnh như xưa. Người Bắc di cư về đây càng ngày càng đông. Má tôi chuyển ra Bến Lội ở kế nhà Bà Tư Hẹ. Vài người lạ gọi tôi là “vẹm con”. Má Bảy buồn buồn nói nhỏ “con Việt cộng”. Tôi tự cảm thấy có điều gì không ổn.                           .                          
       
        Bất ngờ, thầy Thân đưa tôi lên Bà Rịa, đến thẳng cổng sau vào Tu viện Saint Paul, gặp Dì phước tên Ân. Dì Ân dặn tôi không được đi đâu, ở tạm tại nhà kho, chờ làm khai sanh mới và cho tôi thi thử để xác định trình độ học tập.             .
        Nửa tháng sau, Mẹ Bề Trên đưa cho tôi tờ Thế vì Khai Sanh. Theo đó, tôi là Trần văn Thuận, cha là Trần văn Ngự. Dì Ân cũng cho biết tôi đủ điều kiện dự thi bằng Tiểu Học và cho phép tôi về thăm nhà.                                .
   
        Lúc này, Má Bảy chuyển về La Gi, ở trọ trước Nhà Thờ Vinh Tân. Đêm đầu tiên tôi về đây, khi ngồi nghe Má Bảy kể những chuyện buồn sau ngày Ba Bảy bị đày ra Côn Đảo, thình lình Cụ Già ghé vào nói nhỏ “chủ nhà là vợ của một đại tá, hãy cẩn thận” rồi cụ đi nhanh vào hẻm tối. Má tôi trầm ngâm một hồi lâu và bảo tôi quay lại Tu viện gấp.                            .                                 

          Khi gà gáy, tôi qua Tân Lý thăm Mẹ tôi, rồi đón xe đò trở về Bà Rịa. Trên xe, tôi nghe thì thầm lời khuyên của Cụ Già mà tôi không biết tên:“chớ dại, hãy cẩn thận ”.

              
         
Bà Rịa,1960.                                        .
               CÁT SỸ.                                               .                


CỤ GIÀ KHÔNG TÊN

Ngoài hè, ai đó thở dài.
Buồn rầu tóc phả bờ vai gầy gò.
Lòm khòm dáng lạnh co ro.
Thều thào chép miệng, giọng ho khàn khàn.


Ngày tàn chiều xuống đêm sang.
Dò tìm vách cũ hoang tàn dựa lưng.
Nằm ngồi lớ ngớ lừng khừng.
Lơ mơ ngẩng mặt nửa chừng ngó mong.

Nhớ thương nước mắt lưng tròng.
Thấy đâu sương khói bềnh bồng đó đây.
Gậy lê quờ quạng qua ngày.
Lang thang xóm vắng, loay hoay phố nghèo.

Cô đơn phiền muộn ăn theo.
Không nhà người lạ, đường heo hút dài.
Lần về cát bụi một mai.
Buông tay yên nghỉ bên ngoài thời gian.

ĐOÀN THUẬN



LÁI ĐÒ GIÀ

Con đò bến cũ chiều mưa.
Âm thầm gác mái chờ đưa khách về.
Bên hàng liễu rủ lê thê.
Trời cao đổ nước bốn bề âm u.

Sông sâu bóng thẳm mịt mù.
Bờ lau gió thổi vi vu âm buồn.
Ngờ như chim khách cuối truông.
Giật mình hót nhẹ lời suông gọi đò.

Đầu trần ông lái co ro.
Tựa lưng thành mạn mong đò sang ngang.
Tay run khêu bóng tro tàn.
Nhen lên một thoáng khói nhang hương trầm.

Đò neo lại dưới bóng râm.
Dù người khách hẹn, bao năm, không về.
Lái đò già khụ ngô nghê.
Đò xưa đậu mãi bên lề gió sương.

ĐOÀN THUẬN





tranh của Kha Trung



PHƯƠNG XÍCH LÔ

Phương đạp xích lô qua nhịp cầu.
Áo tím em xưa vắng đã lâu.
Đâu biết chở ai về sân bóng.
Cổ động đôi bên thủ huề nhau.

Phương mang theo Phương một quả buồn.
Người trả lại đời trái cô đơn.
Mấy mùa đông Huế đêm Phường Đúc.
Sao vẫn khung thành vắng thủ môn.

Đời chuyền sang Phương một trái quên.
Phương đặt Phương lên chấm phạt đền.
Trọng tài khán giả bỏ đi hết.
Cầu môn để trống cả đôi bên.

Sân cỏ và đời vẫn cứ xanh.
Ai người đá phạt ai thủ thành.
Phương chờ còi thổi, chờ cổ vũ.
Nhìn lại cầu trường chợt vắng tanh.

Phương đạp xe không về Trường Tiền.
Thủ huề nhau chi giữa nhân duyên.
Lá thắm tình xanh, áo em tím.
Buông bỏ theo sông niềm ưu phiền.

           
ĐOÀN THUẬN 

 

BẢY XÍCH LÔ


Lẩn vào gốc khuất trong bóng khuya tàn,
đường Cô Bắc Cô Giang
một xích lô cũ nát,
như túp lều di động tuềnh toàng.

Chàng Văn Bảy,
cầm tinh con ngựa hoang
sinh nhầm thế kỷ trước
nơi miệt vườn sông nước Gò Công Đông

Tuổi thơ cầu bất cầu bơ
không rõ mẹ cha, cửa nhà không có
bơ vơ xa lách bụi bờ.
  
Trên bảy mươi năm lang bạt kiếm ăn
gió sương mưa nắng thường hằng
đạp xích lô nơi Saigon hoa lệ
ở trọ góc đời, bạn với khó khăn.

Nay đã kề bách niên
nhưng chẳng được giai lão
chỉ riêng một nỗi muộn phiền.

Quần cọc áo vá, mái tóc sương pha.
bơ phở mệt mỏi giữa cõi ta bà
ngủ dưới trời cao, ăn cơm thiên hạ
qua phố trăm năm với chiếc xe già.

ĐOÀN THUẬN


LÃO BÁN BÁO

 “Báo nóng…vừa thổi vừa coi”.
Lão gù ôm báo nhẹ hơi rao dài.
”Xem ngay…báo nóng hổi đây”
”Mua dùm mua giúp thằng này…đi thôi”

Vừa năn nỉ, vừa nghẹn lời.
Lão gầy tóc trắng, áo tơi quần đùi.
Ốm o da dẻ đen thui.
Lòm khòm lụ khụ tới lui lần quần.

Bà con quanh xóm xa gần.
Chờ ông từ sớm đâu cần nghe rao.
Lão nghèo dành dụm từng hào.
Ăn nhờ ở đậu, cháo rau qua ngày.

Tiếng rao “báo nóng hổi đầy”.
Âm thanh hương vị lắt lay lòng người.

ĐOÀN THUẬN



LÃO VÉ SỐ


Tiếng rao “Vé số mới …đây”.
Giọng trầm phơ phất cuối ngày mưa rơi.
Gió đưa từng giọt âm rời.
Bay qua xóm cũ, góc đời quạnh hiu.

Người rao bán vé số chiều.
Gầy còm tóc bạc ít nhiều khó khăn.
Thân tàn kiếm sống muộn mằn.
Cô đơn khốn khổ đôi đằng rã riêng.

Vé ghi số mã đồng tiền
Xổ ra trúng đậm có quyền giàu sang.
Người mua lắm lúc mơ màng.
Vé đưa số phận nghèo nàn ra đi.

Số chưa xổ, chửa thấy gì.
Vẫn rao với giọng nằn nì dịu êm.
Đôi người ghé lại bên thềm.
Mua dùm số vé ướt mềm dưới mưa.

Cụ già rao mót âm thừa.
”Ai ơi, vé số…mới vừa hết…đây”.
Lời buồn theo gió mây bay.

ĐOÀN THUẬN

 

 

LÃO  BÁN BÁNH.

”Bánh mì nóng… mới ra…lò”.
Tiếng rao méo mó rồi nho nhỏ dần.

Người rao dừng lại ngoài sân.
Người mua lối xóm ở lân cận nhà.
Mùi thơm bánh nóng bay qua.
Hương mì như giúp cụ già khỏi rao.

Bà con kẻ hỏi người chào.
Tiền trao không đếm, bánh giao đủ đầy.
Nụ cười móm, tóc trằng bay.
Lom khom kiếm sống qua ngày già nua.

Đơn thân trọ dưới hiên chùa.
Buồn vui tựa ngọn gió đùa hồn nhiên.
Về già bóng đổ ngã nghiêng
Dù từng nghiêng ngã theo phiền muộn xưa.

ĐOÀN THUẬN



LỜI RAO HÀNG DẠO


Lời rao bán dạo hàng rong.
Nghe như giọng hát bên dòng đời xưa.

Lời rao trong tiếng gió mưa.
”Đậu xanh đường cát nước dừa…chè đây”
Đôi khi dưới bóng sương bay.
”Mua đi bánh ướt bánh dầy…người ơi.”

Đong đưa từng giọt âm rời.
Chân tình dân dã, điệu đời lam thôn.
Thoát đi từ đáy tâm hồn.
Thầm đưa mơ ước vào ngôn ngữ buồn.

Hàng rong không nặng bán buôn.
Giúp ai lở độ có nguồn dưỡng nuôi.
Lời rao vương vấn ngậm ngùi.
Theo người phận mỏng ngược xuôi dường trần.

Hàng rao với giá bình dân.
Người mua kẻ bán cùng bần hàn thôi.
Sẻ chia kiếp sống luân hồi.

Thủ Đức, 2003
Đoàn Thuận



   tranh của Lý Hoàng Long


LỜI ÔNG LÁI ĐÒ.

Xa quê, sang một chuyến đò.
Vỗ vai, ông lái dặn dò đôi câu.
”Đường đời mưa nắng dãi dầu”.
”Trước bao nghiệt ngã, ngẩng đầu mà đi”.

Lời ông tựa một đạo nghì.
Tôi luôn ghi nhớ thầm thì trong tim.
Giã từ bến nước đồi sim.
Dại khờ phận mỏng nổi chìm một tôi.

May nhờ đèn sách một thời.
Giúp nhau thấu hiểu lẽ đời thực hư.
Bao người lương thiện nhân từ.
Dìu tôi vượt ngả riêng tư mê mờ.

Trầm luân duyên kiếp tóc tơ
Đẩy đưa vạn hữu đến bờ điêu linh.
Đêm yên tự ngẫm lại mình.
Lời xưa ông lái chân tình nhủ khuyên.

Giữa đời cát bụi đảo điên.
Trí tâm an tịnh muộn phiền sẽ qua.

ĐOÀN THUẬN



MỘT LỜI KHUYÊN

Đò ngang sang bến nước xưa.
Lái đò tóc bạc lưa thưa râu dài.
Khuyên tôi đừng ngại trần ai.
”Giữ tâm an tịnh, u hoài sẽ qua"

Đoàn Thuận



tranh của Antom Romako

 

 

DU TỬ và TỨ BẦN
____________________________________________________

Tg.
CÁT SỸ



        Sau năm 1956, khi rời khỏi lưng trâu, tôi lên tỉnh thành tìm mọi cách để được đi học.
Tại đây, tôi nhận ra nhiều điều và lùi vào góc khuất với thân phận bé nhỏ của mình.         .                     
        Sau chiến tranh, nhiều người tàn phế, nhiều trẻ mồ côi, nhiều quả phụ, nhiều người 
thất cơ lỡ vận, nghèo mạt...Gần gụi với tôi là những người trẻ cùng hoàn cảnh, những kẻ
đơn côi lang thang vất vưởng… Trong số đó, Cà, Bá, Quê thân thiết với tôi nhất vì chúng tôi
có một điểm chung. Chúng tôi thường bị khinh khi, bị đánh đập, bị tước đoạt quyền sinh sống,
nhưng chúng tôi chỉ chống đỡ để tự bảo vệ, không đánh trả, không sợ hãi; chỉ ẩn nhẫn để
nhận ra bản chất của sự việc và chọn con đường “chân thiện mỹ” để tồn tại. Do đó, những
người ganh ghét chúng tôi gọi chúng tôi là “Tứ Bần”, tức là “Bốn tên Nghèo Mạt”, cũng là bốn ý
chê bai “bần hàn”, ”bần tiện”, ”bần thần” và “bần bật”.
         .                               

          Bạn Cà rất đặc biệt trong bốn anh em chúng tôi. Cà mồ côi cha mẹ từ thời Pháp thuộc, thành trẻ ăn xin nơi xó chợ đầu đường. Một lái buôn lượm Cà bán cho một ga-ra. Ông chủ ga-ra mua và nuôi Cà ăn học thành thợ giỏi, được chọn vào trường Phú Thọ học khóa kỹ sư. Thế rồi, Cà bị bốn chàng “công tử” đánh gãy xương quai hàm, nằm bất tỉnh bên cổng trường. Một giáo sư người Nhật nhận Cà làm con nuôi đưa về Nhật chữa trị.            .             
         Năm 1964, Cà từ Nhật trở về thăm quê và bốn anh em chúng tôi gặp lại nhau tại Cité Talence. Lúc đó, chúng tôi đều vào đại học và cuộc sống không còn “bần” nữa, nhưng vẫn ghi vào “Lưu bút ngày xanh” bốn “tên bần” theo cách gọi của các “công tử”, như một kỷ niệm “buồn cười”.                    
.      

 

            Sài Gòn, 1964

            CÁT SỸ


.

TIỂU BẦN

“Tiểu bần”, đứa trẻ nghèo nàn.
Ngây thơ đói rách dung nhan quê mùa.
Ngủ nơi xó chợ hiên chùa.
Ăn nhờ từ thiện, bao mùa tựa nương.
*
Đứa qua đám ruộng bờ mương.
Mò cua, mót lúa, tìm đường nuôi thân.
Chân bùn vai bụi đầu trần.
Chăn trâu chăn vịt, lần quần nắng mưa.

Đứa đi kiếm việc dư thừa.
Thối hôi đơ bẩn, thuê chưa ai mần.
Người chê gớm ghiếc, ngại ngần
Trẻ không cơm áo rất cần làm thay.

Đứa đi xin việc từng ngày
Rửa xe, cào dọn nhớt nhầy ga-ra.
Tưới cây, nhổ cỏ vườn nhà.
Tay sai lặt vặt trong gia đình giàu.
*
Tuổi thơ từng bước qua mau.
Đâu hay số kiếp phận nào tiếp theo.
Dù cho sống một đời nghèo.
Chỉ cần thoát khỏi gieo neo đọa đày.

Buồn đau gửi gió mây bay.
”Tiểu bần” mong mỏi tháng ngày ấm no.

Gia Định,1964
CÁT SỸ

 

 

“THẰNG CÀ”
 

Bé Cà không có cửa nhà.
Mồ côi cha mẹ, lân la qua ngày.
Ngu ngơ bụi phủ thân gầy.
Ăn xin, ngủ chợ, hát hay, hơi buồn.

Thế rồi, có một lái buôn.
Bán người giúp việc cho nguồn ga-ra,
Cụ ông mua nhận nuôi Cà.
Ban đầu học chữ, sau qua học nghề.
Xuất thân từ trẻ nhà quê.
Nổi danh thợ giỏi chuyên về xe hơi.

Bổng nhiên hai gã tay chơi.
Đánh Cà nát miệng thành đời cà lâm.
Xương quai hàm gãy lặng câm.
Đường về âm phủ Cà nằm chờ đi.

Nhưng trần gian cũng diệu kỳ.
Giáo sư ngưới Nhật cứu nguy cho Cà.
Đất trời Nhật Bản bao la.
Mong Cà về với mùa hoa Anh Đào.

Gia Định,1964
CÁT SỸ

 

“THẰNG QUÈ”


Quê, thân nghèo mạt ngu ngơ.
Hái rau bắt óc bên bờ ruộng quê.
Không nhà không chốn đi về.
Thập thò ở lén bên lề chuồng trâu.

Chủ nhà bắt được, gõ đầu.
Cho vào thế chỗ chăn trâu thay mình.
Quê quì lạy tạ lặng thinh.
Vì thôi không phải lội sình mò cua.

Cỡi trâu quanh ruộng lúa mùa.
Bạn cùng hoa súng hoa mua hoa muồng.
Từ lâu chẳng rõ ngọn nguồn.
Mẹ cha vắng lặng giữa muôn tiếng cười.

Nhà bên, cô gái xinh tươi,
Thường hay han hỏi chuyện người gần xa.
Và rồi có một đại ca.
Đập Quê nát gót, thành ra “Thằng Què”.

May sao ông chủ không chê.
Thằng Què được phép lết lê tưới vườn.
Dường như trời đất còn thương.
Cho Quê sống tiếp đoạn đường đau chân.

Gia Định,1964
CÁT SỸ



 “THẰNG THỐI”


Bá, nghèo nên dọn rác phân.
Nguồn vui sống tiếp đời cần lao thôi.

Phân người không thối cũng hôi.
Bình thường như chuyện đổi ngôi sang hèn.
Khai thơm, dơ sạch, đỏ đen.
Đại tiện tiểu tiện làm quen bồn cầu.
Che mồm bịt mủi ngẩng đầu.
Nghe phần nát rữa lùa sâu xuống hầm.

Thế rồi giữa một đêm rầm.
Hai chàng công tử dao cầm trên tay.
”Lôi đầu Thắng Thối,ra đây”.
Đánh cho một trận, máu bay đầy nhà.

Bá đành chống nạn đứng xa.
Nhìn người thế chỗ dọn chà cầu tiêu.
Nghĩ mình số phận hẩm hiu.
Làm nghề dọn rác cũng nhiều khó khăn.

Lẽ nào nơi bến sông Hằng.
Có ai giành ngắm bóng trăng dần tàn.
Bá mong cuộc sống bình an.

Gia Định,1964
CÁT SỸ

 

“THẰNG THẸO”


1.
Đâu ai xấu xí như tôi.
Má trái đầy sẹo lại hơi méo mồm.
Gẫy răng nếu sụm móm xồm.
Nghĩ mình dị dạng khó dòm khó coi.

Tôi đành ôm phận lẻ loi.
Lui vào góc khuất, ở nơi vắng người.
Khi nghe có tiếng đười ươi.
Như lời chế nhạo chê cười thảm thê.

”Này thằng thẹo, chúa nhà quê”
”Không ai xấu tệ gớm ghê như mày”

2.
Năm tôi lên tỉnh tìm Thầy,
Để thêm chữ nghĩa, bớt ngày u mê.
Nhà nghèo, đi học xa quê.
Ăn nhờ ở trọ, làm thuê kiếm tiền.

Một hôm, bạn gái láng giềng
tặng tôi chiếc cặp còn nguyên chưa dùng.
Bổng nhiên, một cậu anh hùng
đấm tôi rách mặt, đá vùng háng mông.

Chỉ nghe bạn gái khóc ròng
nhờ Sư Già cõng tôi rong về chùa.
Sư rằng: “buông bỏ hơn thua
tận lòng ẩn nhẫn theo mùa bút nghiên”.

Chuyện làm đau xót Mẹ hiền.
Nhớ con khuôn mặt chữ điền dễ thương.
Nhưng sao rách xước dị thường.
Khuyên tôi về lại ruộng nương quê nhà.

3.
Vết thương thành sẹo ngày qua.
Nỗi đau nhức nhối cũng pha phôi dần.
Nhưng tôi vẫn cứ ngại ngần.
Nhớ Sư dạy phải dự phần bút nghiên.

Bất ngờ, tôi gặp bạn hiền.
Tiểu thư đài các hồn nhiên chân tình.
Sống yên trong một tư dinh.
Giúp tôi kèm trẻ gia đình, lương cao.

Thế rồi, chỉ một tháng sau.
Hai chàng công tử cầm dao tuốt trần.
Một chàng đội nón quân nhân.
Cấm tôi không được đến gần tiểu thư.

Cho ăn một trận đòn nhừ.
Tôi không đánh trả, né đừ thoát thân.
May sao tránh được tử thần.
Sau ngày lành bệnh, tôi cần bỏ đi.

Ba năm trở lại kinh kỳ.
Mới hay bạn cũ đã đi tu rồi.
Đến thăm, chỉ thấy lệ rơi.
Như thương tình thắm một thời bên nhau.

Vết bầm trên má phai màu.
Vết thương trong nỗi buồn đau vẫn còn.

Gia Định,1964
CÁT SỸ




PHẬN CHIM CHUYỀN

Con chim gãy cánh nằm im.
Bên bờ cỏ dại hoa sim rụng đầy.
Nhìn đàn theo gió tung bay.
Khuất mờ vào những áng mây cuối trời.

Chim đau rên rỉ nhẹ lời.
Dần dà lắng tiếng im hơi âm thầm.
Nương thân dưới bóng cây râm.
Uyên ương di rét xa xăm lạnh lùng.

Khung trời trước mắt mông lung.
Non cao rừng thẳm chập chùng mù sương.
Âm u giá lạnh đêm trường.
Âm thanh gõ kiến cung thương nhịp trầm.

Nhắc chừng trụ được bao năm.
Lẽ nào chết giữa lặng câm núi rừng.
Lăn vào khe núi dựa lưng.
Chim gồng đứng thẳng, cánh sưng đứt rời.

Mỏ im mắt nhắm lệ rơi.
Thân đơn một cánh rã rời ngã nghiêng.
Chỉ còn một phận Chim Chuyền.
Qua nhành lá thắm nơi miền rừng xanh.

Núi Cú,1960
CÁT SỸ
 


BA LÁ


Cùng Ba Lá thả xuồng trôi.
Đàn bầu đệm nhịp chèo bơi xa nguồn.
Lam thôn dạ cổ nhẹ buông.
Du dương âm điệu ru buồn chơi vơi.

Câu hò văng vẳng xa vời.
Theo hoa cỏ dại bời bời thoảng hương.
Hồn nhiên bảng lảng hơi sương.
Lênh đênh bèo dạt dọc mương lục bình.

Nghe ca, Năm Lá lặng thinh.
”Lá rơi đắp mộ cuộc tình” dưới mưa.
Ba Bờ kể chuyện mây mưa.
Cùng cô chủ Út thích ưa bên đồi.

Đơn côi từ thuở thôi nôi.
Buồn vui Ba Lá nổi trôi vật vờ.
Thụ Ân, Năm Lá, Ba bờ.
Kết thân trên đất nhà thơ Đông Hồ.

Hà Tiên,1971
CÁT SỸ



TỨ LA


Bè tre lướt nhẹ qua hồ,
dưới chân Núi Đất, bên bờ Rừng Dong.
Một vùng như thể tĩnh không.
như tranh thủy mặc, nước lồng bóng mây.

Nghe xa tu hú gọi bầy,
cùng âm gõ kiến, tiếng chày cuối truông.
như ru dăm cánh hoa muồng.
hồn nhiên buông thả ngọn nguồn phong sương.

Tứ La, bốn bạn tha hương,
nhịp bè hát khúc Trúc Phương, “Đò chiều”,
giữa hồ Núi Đất quạnh hiu,
nhớ đêm La Dạ, nhớ chiều La Gi.

La Gàn nhớ bóng chim di.
La Ngâu nhớ đảo Thiên Y, Hòn Bà.
Núi Ông tọa Đức Linh xa,
Sông Dinh nối cảnh “ly gia” biển trời.

Tứ La tưởng nghĩ không lời,
lòng thầm cảm tạ đất trời quê hương.

Hồ Núi Đất, 1972

 


NHƯ BỤI

Buông theo cánh gió phiêu diêu.
Ru vào quên lãng bao điều tiếc thương.
Tịnh yên qua những đêm trường.
Ngỡ ta như bụi gió sương nhuận trầm.

La Gi, 1974
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận}








tranh của Alexi Le Borgne




HẠT BỤI

DU TỬ
_________________________________




CÕI BỤI


Giọt mồ hôi thấm cõi người.
Thấy trong khô khát nụ cười hồn nhiên.
Đâu cát bụi, đâu nhân duyên,
Đâu đào nguyên cũ cho thuyền về xưa.

ĐOÀN THUẬN






HẠT BỤI


Có hạt bụi mồ côi
trầm ngâm bên cuộc đời
nơi dòng sông tịch mịch
lăn tròn về xa xôi.

Đôi khi dưới mưa rơi
bụi buồn lòng chơi vơi
ướt đầm bên hoa dại
cùng sen ngó mong trời.

Mơ lá thắm tình xanh
được yên nhiên trong lành
dù gió sương thác lũ
dù phận đời mong manh.

Ước vọng trong chiều tà
nơi tận cùng bao la
bên kia bờ xa vắng
hương ru người ru hoa.

ĐOÀN THUẬN

 



BỤI NÂU


Bằng bóng mùa xưa
một lần ngó xuống,
tôi với thẹn thùa
phận mỏng đong đưa.

Bằng đường chia ly
quê người ở trọ,
sách vở thầm thì
nhìn tuổi thơ đi.

Bằng niềm thơ ngây
đời đầy cây cỏ
tôi níu tháng ngày
ru hương hoa bay.

Bằng vệt bụi nâu
dày lên tóc nhỏ
kín phủ mộng đầu
trong cõi bể dâu.

ĐOÀN THUẬN

 

*



CÙNG CÁT BỤI


Tôi cùng cát bụi lênh đênh.
Qua ngang đất trọ gọi tên nỗi buồn.
Nghe vàng lá rụng sau truông.
Mưa ngâu nắng hạn từ nguồn bể dâu.

ĐOÀN THUẬN




BỤI BẬM RÊU KHÔ


Mái rêu ngói cổ mưa dầm.
Thanh âm nhã nhạc điệu trầm cung mây.
Lăng tăng trên lớp đất dầy.
Dăm ba hạt bụi nước xoay đục ngầu.

Giã từ kẽ nứt khe sâu
Bụi lầm trôi dạt về đâu mơ hồ.
Giã từ cụm nhỏ rêu khô,
Nơi từng bụi bậm sống nhờ bao thu.

Mưa xa sấm vọng âm u.
Rêu hoang thức giấc giữa mù mịt khuya.
Đâu hay rêu bụi chia lìa.
Lệ trời ướt lạnh đầm đìa tuôn rơi.

Bụi mờ về chốn xa khơi.
Rêu non ở lại bên đời gió sương.

ĐOÀN THUẬN

 

HẠT BỤI KHE TƯỜNG.


Âm thầm hạt bụi không tên.
Kẹt khe tường nứt dậu phên tiêu điều.
Số phần bụi bậm hẩm hiu.
Gió đưa gió đẩy bao chiều lang thang.

Điêu tàn đền cổ chùa hoang.
Vô tư để ngọn gió ngàn thổi qua.
Bụi nương theo tựa tường nhà.
Vách rêu mái cỏ hiên hoa khe hờ.

Trăng pha nhạt bóng sương mơ.
Hương trời thơm thoảng lặng lờ thinh không.
Trên cao mây trắng bềnh bồng.
Dưới thềm đá cuội bám rong qua ngày.

Mùa trôi vạn hữu vần xoay.
Trầm luân cát đất bùn lầy du miên.
Khe tường như một cửa thiền.
Bụi về cõi bụi nằm yên dưới trời.

Giã từ một thuở chơi vơi
Phong sương xua dạt bụi đời phiêu diêu.
Nay bên kẽ nứt quạnh hiu.
Dường như phận bụi ít nhiều an nhiên.

ĐOÀN THUẬN



*

 

BỤI và TÔI


1.        
Cuộc đời hồng hoang đa đoan từ cát bụi
trôi qua bể dâu trầm luân muôn kiếp
mông lung lối đi về
vương buồn ngang tóc mẹ
huyễn hoặc bờ bến mê.

2.
Ta bà lang thang biết đâu ta như bụi
một hạt bụi không tên không số không màu
đất trời bỏ quên đã lâu
thế nên cỏ cây và sỏi đá và bọ sâu
cã và loài người không hay biết
một hạt bụi quên.

Bụi lầm đôi khi âm thầm dưới bụi
hồn nhiên buồn vui giữa cõi người
hồn nhiên theo gió thổi
rong chơi ven đường lấm lem rã rời.
muôn bàn chân giẫm đạp
bẹp dí trong bùn lầy cùng rác rưởi tanh hôi
khi con người thản nhiên đùa chơi
gào thét tung hô thoá mạ
một thứ văn hoá nhân danh chủ thuyết mị đời…

Dĩ nhiên bụi tôi có quyền ước mơ
kết dính đời mình vào nụ hoa hàm tiếu
cùng làn hương thanh khiết ban sơ
của một loài hoa không thơm lừng tên tuổi
của một mùa hoa không lệ thuộc nắng mưa
một loài hoa như nhiên giữa vạn mùa
dù trong khoảnh khắc sẽ nhạt phai hương sắc
bụi phấn rơi lạnh lùng trên ngàn hoa
và hương cũ chỉ còn hương bụi….

3.
Biết đâu, bụi cùng hoa theo đường dài
xin lá úa đừng rơi lệ
bởi ngàn năm khi hạt bụi qua đời
đã hoá kiếp một tấc lòng tuổi đá.

ĐOÀN THUẬN





tranh của Igor Zenin



VIÊN CUỘI

DU TỬ
____________________________________




BÊN TRỜI
MỘT VIÊN CUỘI


Con đom đóm vào cuối chiều đông tận,
không đủ soi để thấu nỗi phiêu bồng,
trước viên cuội nằm giữa khe tường nứt,
nơi góc đời tịch mịch như tĩnh không.

Bếp củi nhỏ mờ dần từng tia sáng.
Lửa phân ly sợi khói và tàn tro.
Thoáng ấm lạnh giữ đâu điều biến dịch.
Hạt bụi nào sớm muộn cũng hư vô.

Khói mỏng manh nhập thể cùng mây nước
Làn nhạt xanh tan loãng vào quạnh hiu
Cuội tròn lẵn im hơi trong mưa lũ
Hoá kiếp thân luân lạc cõi tiêu điều.

Tro bay nhẹ lả lơi trên mô cát.
Màu bạc phai xám phẳng phủ chân rêu.
Gió tàn bạo quét mòn hồn đá cuội
Chiều dần trôi xui đốm lửa tàn theo.

Cơn địa chấn chuyển rung đời mộng mị
Bức tường cao trên nền đất bụi phơi,
Đổ bóng tối điêu tàn xuống vạn hữu.
Vết lăn trầm một viên cuội bên trời.

ĐOÀN THUẬN 






VIÊN CUỘI NHỎ


Viên cuội nhỏ rong chơi nơi đồng nội,
qua con đường bùn đất quanh co,
nghe rơm rạ vương mang mùi cỏ dại,
lẫn hương đồng và sen biếc hồ.

Từ xa lắc cuội tròn không tên tuổi,
cõi mịt mùng vạn hữu như trống trơn,
đã hoá kiếp qua muôn trùng cát bụi,
lăn bên đời nhẵn bóng nỗi cô đơn.

Đã có lúc, ngụ hờ ven suối trong,
nhận núi rừng làm mái nhà chung,
cùng chim lạ muôn xa về xây tổ,
để ru hoài hoang vắng đến mênh mông.

ĐOÀN THUẬN 


 




CHẾT LÂM SÀNG
MỘT VIÊN CUỘI

Đốt điếu thuốc vào cuối chiều đông tận,
chẳng để quên để nhớ nỗi phiêu bồng,
trước viên cuội kẹt giữa khe tường nứt,
nơi gốc đời tịch mịch như tĩnh không.

Đốm sáng nhỏ lụi dần bên bếp củi.
Lửa phân ly sợi khói và tàn tro.
Thoáng ấm lạnh giữ được đâu điều biến dịch.
Hạt bụi nào sớm muộn cũng hư vô.

Khói mỏng manh nhập thể cùng mây nước
Làn nhạt xanh tan loãng vào quạnh hiu.
Cuội tròn lẵn im hơi trong mưa lũ.
Hoá kiếp thân luân lạc cõi tiêu điều..

Tro rơi nhẹ lả lơi trên mô cát
Màu bạc phai xám phẳng phủ chân rêu.
Gió tàn bạo quét mòn hồn đá cuội.
Ghiều dần trôi xui đốm thuốc tàn theo.

Cơn địa chấn chuyển rung đời mộng mị.
Bức tường cao trên nền đất bụi phơi,
đổ bóng tối điêu tàn xuống vạn hữu.
Chết lâm sàng một viên cuội bên trời.

Thủ Đức, 2012
ĐOÀN THUẬN
.

 


NHƯ VIÊN CUỘI


Tôi theo hạt bụi vào đời.
Đã như viên cuội một thời trẻ thơ.
Giật mình giữa những đêm mơ.
Sóng yên nhiên vỗ suốt bờ dâu xanh..

ĐOÀN THUẬN 




CUỘI TÔI


Nhặt tình cờ viên cuội nằm quên nơi hốc núi.
Chợt nghĩ cuộc đời nào trầm luân qua bể dâu,
đã bào mòn thân phận đất đai từ ban sơ tịch mịch,
tròn lẵn thời gian nhẵn bóng sắc màu.

Ném bâng quơ viên cuội vào thung lũng hoa dại,
Ngờ rằng cuội nhận ra cuộc dạo chơi của làn hương,
đã thoát thai từ niềm đau mang bóng hình đá cuội,
tự thảo thơm cùng ngàn hoa theo gió sương.

Nhớ mơ hồ khuôn mặt cuội mồ côi lăn lóc ngang đời.
Tưởng chừng hạt buồn của thiên thu đã rụng rơi.
Hương hồn của loài hoa tàn phai muôn năm cũ.
Và dường như nơi cõi lòng ta giọt lệ khô bồi hồi.

 ĐOÀN THUẬN



 

*





VIÊN SỎI
[thơ Haiku]


Viên sỏi bên triền núi.
Vô tình lăn lóc về tịch liêu.
Bỏ quên một giọt chiều.

Vết lăn trầm đơn điệu.
Thinh không lắng đọng thanh âm dịu.
Một khoản phiêu lãng buồn.

Tịnh vắng dấu ngọn nguồn.
Viên tịch vô căn hồn gió bụi.
Đá mòn tròn đắm đuối.

Cõi hằng trụ nguyên khê.
Sỏi nương sương khói, lạc bến mê.
Nơi sơn cùng thủy tận.

Nhẵn bóng một số phận.
Giữa ngấn động cát, triền núi non
Giữa trầm luân mất còn.

ĐOÀN THUAN





VIÊN SỎI CON ỐC

TÔI


Nơi tôi ngồi chiều trôi rất chậm
viên sỏi nằm lạnh buốt giấc mơ rêu
một con ốc bò ngang viên gạch vỡ
vẽ dấu chân vào vạch tối quạnh hiu.

Xóm tôi ngụ mới về, người lạ lẫm
viên sỏi nhìn dường như thấy đâu quen
đời nhẵn bóng bao sắc màu năm tháng
đường mồ côi lăn lóc nỗi gập ghềnh.

Con ốc sên cuộn chiều vào chiếc vỏ
bỏ lại tôi một khoảng trống lặng câm
không đủ quên đôi mắt sâu hoài niệm
giọt lệ người thấm lạnh suốt trăm năm.

Từ xa khuất lạc về chiếc lá úa
sắc vàng thu một thoáng theo chiều rơi
dù cây phố Sài Gòn xanh cuối hạ
để tôi buồn nhớ bạn cuối phương trời.

Thảo Điền, 2012
ĐOÀN THUẬN

 

 



 

 


tranh của Charlotte Fung Miller



ĐOÀN THUẬN.
người gieo những mùa hoa.
__________________________

LÊ NGỌC TRÁC



Người về gieo hạt mùa sau
Trên hoang vu đất giữa màu tàn phai
Chắt trong một giọt nắng đầy
Lửa nhen bếp lạnh thắp ngày cho đêm.

         Đọc qua một lần, thêm một lần nữa, những vần thơ “Dưới Hoa”  của Đoàn Thuận, ta nghe lòng mình rung lên nhè nhẹ. Và, trước mắt chợt hiện hình ảnh: giữa mông lung tăm tối, bừng lên ánh lửa, từ hoang sơ điêu tàn, hứa hẹn những mùa xanh.

         Với tập Dưới Hoa, Đoàn Thuận vẫn viết về những miền quê yêu dấu, về tình yêu và nỗi nhớ một thời vàng phai, những cảm nhận sâu sắc về đất nước, dân tộc, vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống, nhưng với bút pháp mới tinh tế. Ý tứ cô đọng đến bất ngờ. Giai điệu âm tiết nhẹ nhàng nghe chừng như mong manh mà lắng sâu. Người đọc dễ bắt gặp nỗi niềm riêng của mình trong thơ Đoàn Thuận. Buồn nhưng không bi lụy. Trong tĩnh có động. Có những bài chỉ vài nét chấm phá như tranh thủy mặc, nhưng ý thơ vẫn đậm đà tha thiết. Có những bài thơ ngắn ngủi, nhưng khi đọc xong gợi mở trong chúng ta nhiều điều vừa xa vừa gần của cuộc sống.                      .
         Riêng tôi , khi đọc thơ Đoàn Thuận đã cảm nhận ra một điều: đi qua những bến bờ hư ảo từ Lời Chiều ngân vọng, trải dài trên mông mênh ngàn xanh, Đoàn Thuận đã thắp lên ngọn lửa hồng trong mưa đêm.                                  .
         Suốt bao năm qua, Đoàn Thuận vừa dạy học vừa làm thơ. Không ồn ào, không đánh đố người đọc bằng câu chữ, Đoàn Thuận âm thầm sáng tác, gắn bó đời mình với thơ ca, với cái đẹp, như người nông dân cần mẫn trên ruộng đồng dù nắng quái mưa sa, vẫn kiên trì gieo hạt. Và Đoàn Thuận thật sự trở thành người gieo những mùa hoa. Những mùa hoa  thơ Đoàn Thuận lung linh sắc màu trong sương mai, ẩn dấu nụ cười xanh mắt lá vương hương bên đời.                      


           
LÊ NGỌC TRÁC

 

KÝ ỨC HOA
.[thơ Haiku]

*
Hàng cây bến sương mù.
Về đâu xác lá buổi tàn thu
Mầm khát khao lộc biếc.

*
Thoáng hương miền ký ức.
Lối núi tĩnh không tự rơi hoa.
Lặng lẽ màu phôi pha.

*
Thơ ngụ hình trong hoa.
Hương thầm dấu kín vào giấy mực.
Nét chữ mùa xóa nhòa.

*
Một khoảnh khắc xót xa.
Buồn đâu riêng ta trong cõi người
Vô thường tình mây nước.
.
Đà Lạt,1968
CÁT SỸ





  tranh của Abram Arkhipov



TỰ HOA.
[thơ Haiku]
.

* HOA
Tự nở tự tàn phai.
Dưới hoa tiếng gõ vàng cát bụi.
Hương lửa đâu một đời.
.

* HƯƠNG
Hương ngủ vùi trong hạt.
Xa hút mùa đi lạc dấu người.
Cõi nhớ hoa tự rơi.
.

* PHẤN
Trên mặt đất mỗi giây hoa nở.
Ong bướm về dạo chơi.
Phấn hương bay xa vời.
.

* HẠT
Vô lượng hương trời từ một hạt.
Không người không ta đi.
Không người không ta về.

Sài Gòn, 1968
CÁT SỸ



TỰ BAN SƠ

Lâu rồi hoa nở bên trời.
Cũng lâu hoa rụng tơi bời cuối truông.
Bao lâu hoa của nỗi buồn.

Mây như vân cát mờ sương.
Địa đàng chạng vạng, thiên đường sớm mai.
Thay phiên lơ lửng trôi dài.

Hai màu đen trắng không phai.
Trời không trăng sáng, tối cài muôn phương.
Đêm đen u ám vô thường.

Ngày lên nắng phả đại dương.
Sóng bạc đầu vỗ tang thương mấy bờ.
Phai tàn có tự ban sơ.

ĐOÀN THUẬN

 

 

HOA BAN SƠ

Có một loài hoa không tàn phai
tự nở vu vơ vào tịch mịch
khi mùa chưa biếc trong mắt nai .

Có một loài hoa không sắc màu
từ độ rừng thu quên rơi lá
lệ sớm chưa nhòa trong mưa ngâu.

Có một loài hoa không chân dung
thoáng qua đời tịnh còn phong nhụy
chưa kịp vương hương đã mịt mùng.

Có một loài hoa không buồn vui
yên nhiên như thể chẳng ngày tháng
hóa đá lặng câm giữa núi đồi.

Có một loài hoa đã qua đời
trở về cát bụi trầm luân mãi
để giữa hồn ta dấu hương phai

ĐOÀN THUẬN





HƯƠNG TRỜI

*
Cỏ cây từ hổn mang.
Đục trong còn mất sắc màu đổi.
Mùa ươm hương thời gian.

*
Vạn mùa hương không sắc.
Sông nước vơi đầy bóng hoa rơi.
Hạt ngủ yên bên trời.

*
Bên non trăng tròn khuyết.
Hương gọi mùa bay hoa phai mau.
Mây nước lạnh ngàn sao.

*
Đêm qua hồ lãng quên.
Rụng ánh sao khuya trên ngó biếc.
Sương vỡ màu hương sen.

*
Cành trúc đậu chiều hoang.
Mai xuân từng cánh bay hạt nắng.
Hương khuất sau phai tàn.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận


 
  tranh của Qin Tianzhu

 



THOÁNG HƯƠNG
[thơ Haiku]

*
Hoa tàn hoa tự nở.
Hương trời phiêu lãng bao bến mê.
Mùa đi mùa tự về.

*
Dạ lý hương nguyệt quế.

Mơ màng nghiêng khóm huệ.
Búp sen lên ngó ngóng mây Hàng.

*
Cúc dại dột bên ngàn.
Dã quì tứ quí tràn mưa nắng.
Hương sắc thầm trắng trong.

*
Qua xuân hạ thu đông.
Tàn phai lại đơm bông
Gốc cội nảy mầm mong vạn thọ.

*
Sống đời cùng sương gió.
Tình bậu mẫu đơn chẳng hạn kỳ.
Trầm lắng mùa lưu ly.

Dĩ An,1962
CÁT SỸ


HƯƠNG XA.

Cỏ cây phương xa
ru thắm ngàn hoa
thả hương theo gió
mê say hồn ta

Sương vương trong cây
nhạt màu hương bay
len qua vườn hạ
cài thơm tóc mây

Dã quì êm ru
vàng thêm mùa thu
lạnh đêm nguyệt quế
dáng ai bụi mù

ĐOÀN THUẬN



HƯƠNG CÚC

Mưa tạt qua vườn rồi đi mất
chỉ âm vang tiếng sấm lưng trời
khóm cúc bổng nở vàng lặng lẽ
và mây chiều vội vã về khơi.

Đốt điếu thuốc dưới hiên nhà vắng
có điều gì mất hút mãi đâu
tiếng sóng biển âm buồn xa ngái
hương cúc đầy trong thoáng mưa mau.

ĐOÀN THUẬN




  tranh của  M.



HOA VÀO MÙA.

Hoa mùa vào hạ sau xuân.
Mây Hàng thu tận, sông Ngân đông hàn,

Hạ mưa, phượng vĩ nở tàn.
Nghỉ hè tiếng trống trường làng lặng im.
Đồi xa tím ngát hoa sim.
Bằng lăng tím lịm nổi chìm sông trôi.

Hồ thu, sen ngó bồi hồi.
Xanh rong trong nước, biếc phôi lác bàng.
Búp cao lá thấp bèo ngang.
Lục bình lơ lửng bàng hoàng mong mưa.

Sầu đâu đông xám lưa thưa
Hàng cây trụi lá đong đưa nhánh cành.
Sương mù giá rét lạnh tanh.
Vườn hồng luống cúc mong manh sắc màu.

Xuân về thả giọt mưa ngâu.
Cây rừng nứt lộc dưới bầu trời xanh.
Lẽ nào một sớm nắng hanh,
Chỉ mai vàng nở rực cành chào xuân.

Bốn mùa chuyển hóa trầm luân
Hoa quen cỏ lạ vẫn tuân theo trời.

La Dạ,1972
CÁT SỸ




HOA THEO MÙA
[thơ Haiku]

1.
Trăng sao một vòm trời
núi sông một vuông đất
mang mang mây nước theo mùa trôi.

2.
Dưới dấu mùa cỏ cây
nỗi héo hon đâu thấy
chỉ thoáng sương mờ vương vấn mây.

3.
Hạ nắng vàng cây sông
bùn non theo nhựa lên đỉnh ngó
hương sen tràn thinh không.


4.
Rừng giao mùa rớt lá
bên ngàn non thẳm tiễn thu đi
mưa xa chợt thầm thì.


5.
Đông sang bấc lạnh đầy
đàn chim di rét về ngang biển
đồi vắng hoa cát bay.


6.
Xuân không mùa không cũ
non xanh lẩn khuất hương vạn cổ

mai trẩy lá hoa về.

ĐOÀN THUẬN


HẠT MÙA


Mẹ đi để lại hạt mùa.        
Nương rau bóng áo nâu xưa một thời.
Quê nghèo bông lúa vàng ơi.
Đất đai thấm giọt mồ hôi bao điều.

Mẹ đi xuân sớm thu chiều.                              
Sương mù phố núi quạnh hiu lối bờ.
Con về tìm lại lời thơ.
Tự ru vào giấc mai chờ ngày lên

ĐOÀN THUẬN

 



MẦM HẠT        


một ngày hoa mộng trở mầm
nhựa nguồn từ thuở bụi lầm đất xưa
duyên thầm hóa kiếp hạt mưa.


hoa như rơi đã bao mùa
sắc màu cùng gió sương đùa nước mây
nơi đâu tình thắm cỏ cây.


tinh hoa nhuần nhị vơi đầy
xuân thu đắp đổi hương bay về trời
một ta ngồi ngắm bóng chơi.

ĐOÀN THUẬN





.PHÁC THẢO HOA

Người phác thảo dòng thơ.
Bằng nét thư pháp cổ.
Quên đề lạc khoản nhỏ
Một buổi chiều vắng xa.

Ta phác thảo mùa hoa.
Với hương thầm cây cỏ.
Theo quảng đời lọ mọ.
Trước ngây ngô sắc màu.

ĐOÀN THUẬN



         tranh của Mary Cassatt



HOA BÊN SÔNG.
 


*       
Cây vông thắp lửa cuối chiều
ta qua phà Bắc nhớ nhiều kênh Nam
ai  ngồi giặt áo bên vàm
tóc mây thả hết hương tràm một mai
              [Vàm Cỏ, 1970]

*
Lau thưa nghiêng trắng sông dài
con thuyền gác mái bên ngoài hoàng hôn
dòng trôi chia nửa dáng cồn
hoa bằng lăng rụng tím hồn mênh mông.
            [Sông Dinh, 1971]

 

 

*
Hoa bần hồng một dải sông
nhị bần bay tím lồng trong cây mùa
cuối vàm một mái chèo khua
giọng hò êm tưởng như lùa hương đi.
          
[sông Hậu, 1972]

*
Quanh co dặm vắng sông quê
lặng trong rêu đá tiếng ve nhạt nhòa
lời buồn yên tĩnh trong hoa
bóng chiều rơi chậm thuyền xa bến Kiều
           
[sông Kiều, 1973]

*
Tạnh sông dải lụa ngang chiều
một làn khói mỏng làm xiêu cây bờ
ngờ như chiếc lá bâng quơ
tiếng chim se sẽ chạm hờ vào hoa.                 
          
[La Ngà, 1973]


ĐOÀN THUẬN

 

 



BỜ TIỂU CÚC.

Ngày thu muộn đổ chiều xuống vạc cỏ
Nắng vội phai bỏ dại khóm địa lan.
Thoáng hương xưa len thầm vào tĩnh lặng,
Hàng liễu dương sương muối phả mơ màng.

Theo đường hoa tìm về đất trọ cũ.
Thôn quê buồn xóm rẫy vắng, nay đâu?
Chỉ thấp thoáng nhà vườn tường vôi trắng.
Giữa nương rau luống cải, khu hoa màu.

Mái trường làng trên đồi bằng lăng tím
Chòi cành nôm bên suối dáng liêu xiêu.
Đã khuất vào sâu thẳm miền ký ức.
Cũng lặng thinh tiếng mõ tụng kinh chiều.

Đâu gác trọ bên nhau ngày đèn sách.
Cùng buồn vui mong ước đời bình yên.
Dù mưa nắng bão giông, cảnh dâu bể.
Dù tha phương lưu lạc qua bao miền.

Nay bạn học và em đã biền biệt,
Ta bồi hồi tưởng niệm khung trời xưa.
Nhớ bờ hoa tiểu cúc vàng thanh khiết.
Như ngây ngô ước hẹn thơm quanh mùa.

ĐOÀN THUẬN

 

 

*

 

 

HOA RỪNG LA GI.

1.
Gò anh đào sông Dinh, truông Mây
Mõm Đá Chim, rừng dầu Dinh Thầy
Hồ Núi Đất, sông Hàn, động Chú
Hoa bốn mùa hương ngát cỏ cây.

Rừng hoang vu cây dầu cao xanh
cho phong lan tầm cư yên lành,
cùng cúc dại, muồng vàng, mua tím,
đầm, đìa sen, láng cỏ lương, tranh.

Hoa dầu bay, hoa bằng lăng rơi,
mai bên ngàn, sầm sim lưng đồi,
tràm, nguyệt quế, dã quì, dạ lý,
hương hoa rừng thơm lựng đất trời.
2.
Qua bao mùa lưu ly tha phương,
đường hoa mơ đưa tôi về trường,
sân phượng vĩ Bình Tuy công lập,
cùng em thơ cấy chữ ươm hương.

            ĐOÀN THUẬN






MƯỜNG  HOA.


Một thung lũng hoang vu
ôm dòng suối Mường Hoa
dưới chân Tà Van hùng vĩ
sắc màu theo cánh bướm về xa.

Dưới gộp đá bên bờ hoa dại
ngấn lúa non phủ lên sườn núi
những nấc thang xanh
vòng quanh những cánh cung đất
mất hút trong đỉnh rừng.

Trên cao đôi khi khe nước
rơi mơ màng
những sợi tơ trắng xoá
ẩn hiện giữa mây ngàn.

Đơn sơ đôi mái cọ
vắt vẻo nơi lưng đồi
dưới tán cây già rợp bóng
khói chiều quấn quít sương trôi.

      Sa Pa,1989
      ĐOÀN THUẬN



BIỂN NGẢNH
và 
RONG XANH

Sóng tạt vào gộp đá,
trắng xóa bờ rong xanh,
nước tràn khắp mặt gành
tung tóe ven triền động.

Bấc biển lùa gió lộng,
xóa dấu vết chân qua,
của người về khơi xa,
cùng bao điều buông bỏ.

Dưới trăng lũ còng gió
se cát lấp biển đông,
ngăn con sóng bạc lòng
trước tình đời dâu bể.

Cành san hô tàn phế
nằm giữa khe đá thô,
như thân phận mơ hồ
chìm vào cõi vô niệm.

ĐOÀN THUẬN


 

 

PHONG LAN

PHONG SƯƠNG


Phong sương miên man ru phong lan.
Hoa lan theo sương, hương bàng hoàng.
khi gió mùa thu đưa mưa móc
phả bụi lưng trời, lạnh rừng hoang.

Phong lan đành lòng cùng phong sương,
nồng nàn xanh tươi hay tang thương,
sương lan luân hồi chung nguồn gió,
số kiếp đong đưa giữa vô thường.

Như tôi long đong ngày tha phương,
bao mùa xa nhà xa quê hương,
phiêu bạt xứ người tìm lối sống,
thân phận cô đơn thêm đau buồn.

Đường trần mưa mây hay pha sương,
mơ màng lưu ly tình yêu thương,
tôi trước hoa xưa thầm nguyện ước,
dù đời bội bạc, vẫn nguyên hương.

ĐOÀN THUẬN





*



MỘT KHÓM HUỆ

Khóm hoa huệ trắng nơi góc vườn
như bị bỏ quên trong gió sương,
bên bờ dậu nát cây râm bụt,
thầm lặng nở hoa thoảng nhẹ hương.

Lá xanh như thể những cánh tay
mỏng manh tự dưỡng ngày thêm dày,
chở che bao hoa trước mưa nắng,
cùng sống bên nhau dưới bóng mây.

Đóa nở cánh đầy màu trắng trong,
hương trầm thanh khiết, nhụy pha hồng,
cội rễ tích tụ nguồn nhựa luyện,
ươm mộng nẩy mầm ra búp bông.

Mùa màng trôi qua theo tự nhiên,
đời hoa tàn nở còn chút duyên,
mộng thầm trụ lại cùng cây cỏ,
dù mầm tươi thắm hay rã riêng.

Búp thức sớm mai ngủ đêm thâu,
cuống non vươn lên, già cúi đầu,
dáng như cầu nguyện với trời đất,
vạn hữu yên nhiên trước bể dâu.

An Nhơn,1964
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]




 

HUỆ TRẮNG  
trong THƯ VIỆN

Chiều thư viện và trang văn của Goeth
dòng đời trôi vội vã ngoài xa
huệ trắng giữa án thư người đọc
ta bàng hoàng trước những đoá hoa.

Huệ nở trắng, một màu thanh khiết
vẫn là hoa, vẫn mãi là ta
đâu tìm thấy đường về qua sách vở
nghèo đói bơ vơ ,khói lửa quê nhà.

           ĐOÀN THUẬN



HUỆ TRẮNG
trước
DÔNG TỐ

Dông tố bão bùng ào ạt qua.
Sấm rền gió hú, trận mưa sa.
Bãi bờ sạt lở, rừng nghiêng ngả.
Thương hải tang điền cõi ta bà.

Lũ quét sóng thần tạt vào đời.
Cỏ cây hoa lá, cành tả tơi.
Nhà tan cửa nát, người ly tán.
Xóm mạc điêu linh, bóng ma hời.

Giữa cảnh tan hoang, đời buồn tênh.
Một búp huệ non mộng nhô lên.
Cánh trắng, nhụy hồng, hương thơm thảo,
Bám đất nương thân, dù gập ghềnh.

Nước nổi bóc hơi thành mây trời.
Lặng trầm cát bụi về xa khơi .
Ân hoa huệ trắng vẫn thanh khiết.
Ngỡ như hương nguyện thầm không lời.

Sài Gòn,1968
CÁT SỸ





tran của Edward Atkinson



HOA và ĐẤT


Hoa nào biết giữa chập chùng biến dịch
bão mặt trời sẽ hút nước đại dương
bão điện từ xoay tối tăm mặt đất
khối tuyết băng đưa hoa vào tang thương



Hơn một lần hơi sương vào hư ảo
mang theo màu mắt biếc lúc thu phai
để đời lá se lòng ôm giá lạnh
bên vườn hoang mộng mị nỗi ai hoài

Rễ bám đất đai, rừng thiêng giữ mạch nguồn
thiên nhiên xanh nuôi dưỡng bao khu vườn
hoa kết trái, ươm mầm lưu nòi giống
biến hóa muôn đời theo mưa nắng gió sương.

Thú hoang dã cùng côn trùng bọ sâu
tàn phá cây non cổ thụ hoa màu
nhưng không thể hút cạn nguồn sinh lực
hoa vẫn nở tàn, vẫn lưu hương mai sau

Lịch sử đời hoa, lịch sử của núi sông
không riêng nơi đâu giữa cát bụi ta bà
không thuộc về ai những mùa hoa văn hiến
thuộc lẽ tuần hoàn của vũ trụ bao la.





MẤY MÙA HOA DẠI

1.
Hoa mùa chuyển nhựa hồng hoang,
như đời nhân quả tuần hoàn tử sinh,
như ngày khởi tự bình minh,
như đêm buông phút lặng thinh hôn hoàng.

2.
Hạ thu mưa đổ lá vàng,
sầm, sim, huệ, cúc, hồng, xoan, tràm, muồng,
bằng lăng, dạ lý, quế hương
chờ cây thay lộc lạnh sương đông hàn.

Ngàn mai tự đón xuân sang,
anh đào, ngọc điểm, địa lan, sen đầm,
từng đàn én hạc xa xăm,
về ngang động diếc, đồi trâm, rừng dầu.

Bấc nồm ru ngọn sầu đâu,
lưu ly, thiên lý, phai mầu mơ xưa.
cây hoang cỏ dại bụi thừa
tiễn đưa từng cánh lưa thưa hoa tàn.

Hồn nhiên theo bước thời gian
lương duyên sương gió bên ngàn phôi pha. 
Tình xanh lá thắm hương hoa
mấy mùa thơ mộng cũng nhòa nhạt thôi.

Định Quán,1964
CÁT SỸ

 

 

HOA  ĐỒNG CỎ NỘI

Hoa đồng cỏ nội mây trời.
Bao mùa hoang dại mơ đời hanh thông.

Hạn khô mông quạnh đồng không.
Đầm hồ lắng nước, suối sông cạn dòng.
Rừng tàn đất bụi non bồng.
Héo hon vườn tược, đắng lòng cỏ cây.

Trời xanh nuôi dưỡng áng mây.
Dung nhan hơi nước tràn đầy hạt mưa.
Sấm rền gió lộng âm thừa.
Lâm râm lác đác lưa thưa rì rào.

Từng làn mưa móc trên cao
Rơi rơi thánh thót ngọt ngào miên man.
Đất đai thấm ướt mùa màng.
Ruộng nương rẫy bái non ngàn tươi xanh.

Mưa mây buông nhịp trầm thanh.
Cỏ hoa đồng nội long lanh giọt mùa

CÁT SỸ
Đoàn Thuận




tranh của Le Lê Phan Quốc



HOA MẮC CỠ.


Chiều đổ bóng trên vạt hoa mắc cỡ
đôi cành xanh khép nép vẻ thẹn thùng
như dấu kín trinh nguyên trong tĩnh mịch
nét hồn nhiên trước biến dịch muôn trùng.

Một gọt sương vô tư rơi lặng lẽ
chạm hờ vào chúm môi hoa mong manh
mép lá nõn rùng mình khép cánh biếc
làn hương xuân thoảng nhẹ không âm thanh.

Nụ phấn hồng cuộn tròn màu sương gió
chút hương thừa trôi mải miết vào đêm
sẽ về đâu phút giao mùa hoa cỏ,
còn lại chăng một thoáng lạnh dịu êm.

    
ĐOÀN THUẬN

 


LAN BẠCH HẠC


Chùm lan xanh đong đưa những búp hoa.
Tưởng hạc xưa về ngang trúc đêm qua
Cánh mỏng manh khép màu sương thanh khiết.
Hương dịu thơm mênh mang ngoài hiên nhà.

Gió nhẹ hờ ru nghiêng nhành lan cong
Vỗ cánh bay hạc trắng vào mênh mông
Để xác hoa lạnh buồn trên cỏ biếc.
Chỉ làn hương thấm êm hồn tĩnh không.

         
La Ngà,1992.
            ĐOAN THUẬN




LỤC BÌNH TRÔI


Lục bình từng đám lênh đênh.
Nõn xanh bông tím bồng bềnh êm trôi.
Lá già vàng úa bồi hồi.
Che ngang góc rễ thôi nôi một thời.

Sông dài con nước đầy vơi
Rong rêu chìm nổi tả tơi theo dòng
Lục bình đâu mãi thong dong.
Hoa tươi lá búp long đong nở tàn.

Đôi khi ghé tạm bờ hoang.
Cùng bàng lác ngủ mơ màng dưới trăng.
Nước trôi bến đậu đôi đằng.
Phao bèo thuyền lá nhọc nhằn bên nhau.

Gió ru cây cỏ thì thào.
Vi vu như thể lời chào biệt ly.
Tiễn đưa sen ngó hoa quì.
Sông xuôi dòng đến biên thùy nào xa.

Chỉ còn tim tím sắc hoa.
Trên màn màu lục nhạt nhòa phong sương.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận



 
HỒNG HOANG


Nụ hồng như chúm môi son.
Hôn lên nhân thế núi non phận người
Búp tròn khép nép mỉm cười.
Lặng thầm mộng tưởng thắm tươi duyên tình.

Hồng hoang trước nhịp tử sinh
Hương mơ hoa mộng yên bình như nhiên.
Muôn mùa mây nước lâm tuyền.
Sương sa mờ bóng đào nguyên bên trời.

Hoa hồng chuyển sắc tùy phôi.
Hoa đời tùy phận luân hồi thông dung.
Hồng vàng, hồng trắng, hồng nhung.
Tùy mùa mưa nắng chập chùng sắc hương.

Đài xanh nở trước gió sương.
Tia gai khía lá cánh hường phấn tơ.
Bảo bùng cây cỏ vật vờ.
Màu xưa dáng cũ nhạt mờ theo mây.

Nụ hoa hồng giữa tháng ngày.
Hương cùng sương gió mưa bay ngang đời.

ĐOÀN THUẬN

 

 

 

MÀU HOA SIM.

Mưa lâm râm trên đồi hoa sim,
bay lơ phơ bên mương rau bìm,
như điệu nhạc chiều trong rừng thẳm,
chim về non, còn khoảng lặng im.

Hoa không tên bay trong mưa rơi,
làn hương thơm theo mây xa khơi,
một thoáng buồn phả màu tím tái,
vào nỗi niềm sương gió pha phôi.

Đường thời gian đưa tôi vào xưa,
trang thư kèm hoa sim chiều mưa,
dòng mực tím màu sim ly biệt,
nhớ sắc hoa, nhớ nhau bao mùa

           ĐOÀN THUẬN




*



NGÓ SEN

Mưa phùn phơ phất trên không.
Hơi mưa thấm đượm tấc lòng nước mây.
Hoa mùa thả phấn hương bay.

Đóa sen từ cõi bùn lầy.
Rễ mang mầm đất nhựa cây sắc trời.
Ngó tròn ngóng áng mây trôi.

ĐOÀN THUẬN


 


TIM SEN


Hoa sen hồng hoang từ bùn lầy.
Tim sen an nhiên trong hồ đầy.
Rễ non nớt bám vào đáy nước.
Búp nõn theo mùa thành ngó may.

Hương sen lan thầm vào không gian,
không vương mùi bùn nơi hoang tàn.
Đóa nở nhụy vàng cánh hồng thắm.
Lá tròn xanh biếc đọng sương tan.

Đầm hồ bàu bưng nơi thân quen.
Bùn lầy nuôi nương bao cây sen
Mưa nắng nở tàn hương vẫn dịu,
không mang mùi tục, dáng thấp hèn.

Sen nơi ao hoang bên bờ cây,
Thiên nhiên tuần hoàn, mùa vần xoay.
Vẫn giữ hương nhu màu thanh khiết.
Dù đời cát bụi gió sương bay.

ĐOÀN THUẬN





SEN HỒNG


SƯƠNG LAM


Sen vàng khô cong trên dòng kênh,

mang theo sương lam tròn không tên.
bên rìa rừng đước, mùa nước nổi,
gió ru hơi lạnh qua trăng đêm.

Sen cùng sương trôi trong âm thầm,
đường về chân trời còn xa xăm,
cỏ hoa cây lá đầm mưa gió.
mùa đi phận chuyển bóng dương âm.

Màn khuya tan đi, hừng đông về.
Nắng mai soi ấm bến mộng mê
Sen héo, sương tan theo mây nước.
Đôi giọt mưa thừa rơi lê thê.

Sương như hơi mây bay về trời
Sen thầm ẩm ướt nát tả tơi
Phân ly lưu lạc vào đôi cõi.
Sen lắng đất bùn, sương chơi vơi.

ĐOÀN THUẬN




LÁ SEN

CÁT BỤI


Một lá sen tròn như nia con,

rời xa đầm xưa, luôn mõi mòn,
trôi nổi bồng bềnh nơi hồ vắng,
mưa dầm nắng quái thêm héo hon.

Qua bao mùa đi đời lang thang,
nước thấm sương pha màu úa vàng,
dần dà thân vướng đầy cát bụi,
phận mềm nặng nợ tình cưu mang.

Gió chướng thổi bay bụi xa vời.
Mặt hồ in bóng vòng rụng rơi,
lặng thầm nhập cuộc vào bùn đất.
trầm ngâm đáy nước, khuất mây trời.

Cát sạch bụi đời, còn lơ mơ
nằm trên thân lá trôi vật vờ,
chờ ngày qua bến bờ dâu bể,
thoát thời phiêu bạt, phận nương nhờ.

Nia sen chở cát dạo quanh hồ.
nước dâng dạt vào rễ cây khô,
ngụ tạm dưới trời, bên rừng đước,
rã rượi lắng vào cõi hư vô.

ĐOÀN THUẬN

 

 

LÁ SEN
chở
DẾ MÈN


Bờ kênh cho neo chiếc lá sen.

Trên chở xác chết chú dế mèn.
Lá khô cong đậm màu rêu biếc.
Dế nằm úp mặt cánh bóng đen.

Sen như thân phận lá thuyền nan.
Gió lùa vào giữa đám lác bàng.
Bên cạnh lục bình hoa tím ngát.
Bèo dạt cỏ vương chờ đưa tang.

Đắp trên thân dế một lá vàng.
Làn sương mù bay như khói nhang.
Con chim bói cá trên nhành đước
Hót lời tiếc thương âm khàn khàn.

Cá sặc cá trê trong lòng kênh.
Đội đưa thuyền sen vào bồng bềnh.
Bàng lác liu riu thầm tiễn biệt.
Lục bình bèo rong trôi buồn tênh.

ĐOÀN THUẬN




 

 


tranh của Rosa  Foetida





NGÀN MAI

Một cánh rừng mai nở bạt ngàn.
Hương lùa theo gió khắp quan san.
Cành cành búp mới khoe màu biếc,
Đoá đoá đài non thắm sắc vàng.
Chạnh nghĩ thương tình hoa phố thị,
Thêm buồn tiếc nuối thuở hồng hoang.
Mùa đi bỏ mặc đời dâu bể ,
Cây cỏ dung nhan tự úa tàn.

ĐOÀN THUẬN



HẠT MAI NÚI

1.
Hạt mai núi kẹt trong kẽ đá,
bị cát bùn bụi đất phủ đầy,
không bóng nắng, giọt mưa thưa nhỏ,
thân khô gầy theo mùa cỏ cây.

Ngày nắng gắt, đá hanh hao nóng,
mùa lũ mưa, nước ngập ngụa tràn,
hạt vẫn như dần mòn héo hắt,
trước rừng mai vô tư bạt ngàn.

Nương đất trời vạn hữu sinh sôi
có lẽ nào nhân quả luân hồi,
đã bỏ quên phận mầm hoa cỏ,
để hạt cằn teo tóp bên trời.

2.
Cơn địa chấn chuyển rung sông núi.
Đá tan hoang, sâu chết dưới mưa.
Mùa vần xoay, hạt mai đất cũ,
Thầm nẩy mầm ươm hoa hương xưa.

ĐOÀN THUẬN

 

 


CỘI  MAI

Đông sang trẩy lá cội mai già.
Chuyển nhựa trăm năm dưỡng sắc hoa.
Hạt mọng rơi thầm trên đất cũ.
Hương nhu bay khuất phía trời xa.
Mưa ươm nụ mới màu biêng biếc.
Nắng nhú chồi non dáng thướt tha.
Én gọi mùa về xuân trở lại.
Riêng ta tuổi dại mãi trôi qua.


ĐOÀN THUẬN




MAI SẺ

Cuối chạp, mai rừng sớm rộ ngang.
Ta còn cội Sẻ đón mùa sang.
Thân già búp mới đài xanh điểm.
Gốc cổi nhành non lộc biếc tràn.
Sắc thấm môi hoa còn chúm chím.
Hương vương mắc lá đã mênh mang.
Tình hoa lắng đọng hồn sông núi.
Hạt chuyển mầm xuân nụ nở vàng..

ĐOÀN THUẬN





MAI VÀNG

Đóa mai nhụy trắng cánh vàng.
Phấn hồng thơm thoảng bên ngàn mơ xuân.
Hương mùa dịu lắng bâng khuâng,
theo dòng hoa lệ thế nhân u hoài.

Mai dù mai một một mai,
thân già vẫn dưỡng miệt mài nhựa nguyên,
đâm chồi nẩy lộc như nhiên,
tình xanh lá thắm xe duyên tự nguồn.

Mưa dầm nắng quái sương buông.
Đài xanh búp nõn cành xuông nứt mầm.
Đời người dài ngắn trăm năm.
Đời hoa một thoáng lặng câm nở tàn.

Thu phai đông tận xuân sang.
Ngàn mai nở rộ hoa vàng hồn nhiên.
Hương mai bay đến đôi miền,
như mong vạn hữu bình yên thái hòa.
                                                                         

ĐOÀN THUẬN

 

 

ĐÓA MAI

Âm đương đắp đổi bốn mùa trôi.
Cỏ cây hoang sơ tràn núi đồi.
Nhựa nguyên chuyển dịch dòng sắc thể
Phấn hương ong bướm bay ngang đời.

Hạ bạt mưa giông nắng thu vàng.
Đông xám sương lam lạnh tràng giang.
Móc trắng vương hờ nhành liễu rũ.
Xuân ấm chồi non xanh quan san.

Lá thắm như nhiên lạc bến mê.
Lộc trời buông thả xuống sơn khê.
Cội mai ươm mầm nứt mộng biếc.
Một “đóa vàng thơm” mong én về.

Mùa đi hương nhạt hoa tàn phai.
Bụi lầm hoá thạch lối thiên thai.
Tiên nữ đào tơ dâng Lưu Nguyễn.
Thấp thoáng mây mưa giấc mơ dài.

ĐOÀN THUẬN

 

 

MAI BÔNG-SAI.

Trong vườn một chậu bông-sai.
Dáng hình thu nhỏ cội mai rừng già.
Tuy mùa thiên cổ đã qua.
Hồn nhiên vẫn tự nở hoa nhung vàng.
*
Hạ tàn thu tận đông sang.
Bông sai lá rụng mơ màng dáng xuân.
Đâm chồi nứt mộng bâng khuâng.
Nõn nà nụ búp thơm dần môi hoa.

Dịu dàng nhẹ thoáng hương pha.
Lan từ nhụy phấn vươn ra cõi ngoài.
Nhòa vào phong vị trần ai.
Khiết thanh như thể nhạt phai giữa đời.
*
Mai rừng trụ lại dưới trời.
Trong khuôn chậu nhỏ một thời rêu phong.
Khi rừng hoang hóa mênh mông.
Thiên nhiên biến đổi, cộng đồng nhiễu nhương.

ĐOÀN THUẬN



 

 

NHỚ CỘI  MAI

Trời đông hơi lạnh chờ xuân sang.
Riêng tôi lụ khụ còn lang thang.
Xa xôi quê mẹ ngày xế bóng.
Ở trọ xứ người buồn miên man.

Nhớ cội mai xưa sân nhà vườn.
Đã từng đón tôi ngày hồi hương.
Nhụy hoa thơm dịu tóc du tử.
Sau mùa phiêu bạt cùng gió sương.

Sân trường phượng vĩ màu tơ vương.
Bụi phấn bụi hồ, lẫn bụi đường.
Lỡ thầy lỡ thợ, đành lỡ độ.
Từ giã cội mai, lại tha phương.

Tôi nay lơ mơ phận đồ già.
Bút nghiên bụi bám thêm xót xa.
Con chữ nằm im trang nhật ký.
Lưu dấu cội mai xuân quê nhà.             

Thảo Điền 2014
ĐOÀN THUẬN

 



       tranh của Lyne Lafontaine



PHẬN HOA.


Thu vàng trôi ngang đông sầu vào xuân xanh.
Bàn tay gió khô khua lá bay trơ cành.
Dù hơi mây giã từ nắng hanh ngày cuối hạ,
Mùa vẫn tự nhiên dạo chơi như lữ hành.

Mầm cây đong đưa trên không trong sương tan
Chưa kịp sinh sôi nở hoa đã úa tàn.
Khi cách ly đất đai, xa mờ nơi trú ngụ.
Dù tấm thân tầm gửi, dù mộng đời phong lan

Hương trời miên man ngàn xưa còn đâu đây
Vương theo cánh chim phương xa, trên áng mây.
Về cõi hư vô đâu tuổi tên, đâu hình bóng
Nỗi niềm phấn hoa lặng câm bao tháng ngày.

Hoa tàn bên sông vì đâu, khi sương phiêu bồng?
Hương phai từ hoa khi nao, một đời hư không?
Người đã đuổi ta tại sao, cho vườn hoang vắng?
Cỏ dại ngây ngô cô liêu giữa trời đất mênh mông.

            ĐOÀN THUẬN



ĐỜI HOA.

Không có ta, hoa vẫn nở muôn nơi
Sắc sắc không không luân chuyển đổi dời
Hương thơm thoảng của bao lần hóa kiếp
Chợt một ngày từng cánh tự nhiên rơi .

Hoa tự biết tìm ra nguồn yêu thương
Đâu cần người đàm đạo thú văn chương
Chẳng chờ mong trà rượu thưởng hoa đẹp
Ong bướm đi về tan tác phấn hương.

      ĐOÀN THUẬN




TRĂNG HOA


Trăng thanh soi tỏ hoa xuân.
Đêm rằm thơ mộng, bâng khuâng vườn đời.
Giọt trăng huyền dịu nhẹ rơi.
Môi hoa nhuận thấm sắc trời như nhiên.

Trăng ngà hoa dại tầm duyên.
Gió sương mưa móc ước nguyền trăng hoa.
Xuân thu mấy độ trôi qua.
Từng đêm mòn mỏi trăng tà lặn đi.

Địa lan thiên lý lưu ly.
Tim hoa lắng nhịp chu kỳ trăng sao.
Hoa quì sen ngó trời cao.
Hương nhu trầm nhụy thắm màu nguyệt hoa.

Trăng non trăng lặn trăng già.
Hoa mơ hoa mộng trăng hoa một thời.
Mây mưa trăng gió pha phôi.
Khuyết tròn tàn nở luân hồi Hoa Trăng

Đoàn Thuận





HOA và MỘNG

Như hương tóc thoảng qua giấc ngủ
một đài hoa rơi lạc trong mê
ta khẽ chạm buồn lên ký ức
nghe người xưa nhỏ nhẹ quay về.

Người về trước tầm tay vời vợi
tóc buông mềm trên vai lặng thinh
người về giữa đêm trăng nín thở
khóe mắt mùa thơ dại long lanh.

ĐOÀN THUẬN

 

 

 

*



LỊCH SỬ một ĐỜI HOA.

           
Lịch sử bông hoa đâu hạn theo tháng ngày
cuộc đời lau sậy chưa hẳn từ mầm cây
  trải xuân thu qua bao mùa biến đổi
để sắc màu trụ mãi dưới bóng mây.


Bão tố cuồng phong thổi ngất bầu phấn hoa
cùng bướm ong mang hương về phương xa
tìm hoang vu trú chân đời phiêu bạt
hạt nứt lên cây, cành lá toả la đà.

Rễ bám đất đai, rừng thiêng giữ mạch nguồn
thiên nhiên xanh nuôi dưỡng bao khu vườn
hoa kết trái, ươm mầm lưu nòi giống
biến hóa muôn đời theo mưa nắng gió sương.

Thú hoang dã cùng côn trùng bọ sâu
tàn phá cây non cổ thụ hoa màu
nhưng không thể hút cạn nguồn sinh lực
hoa vẫn nở tàn, vẫn lưu hương mai sau

Lịch sử đời hoa, lịch sử của núi sông
không riêng nơi đâu giữa cát bụi ta bà
không thuộc về ai những mùa hoa văn hiến
thuộc lẽ tuần hoàn của vũ trụ bao la.

         
Nghệ An, 2008
              ĐOÀN THUẬN





LỜI HOA.

Dù ngôn từ có mông lung.
Đất đai vẫn đợi lạnh lùng mưa rơi.
Cỏ cây ươm nhựa không lời.

Để hoa tuyết rụng trắng trời.
Gió đưa về cõi xa vời giá băng.
Mây mờ vương vấn cung Hằng.

Yên nhiên sen nở dưới trăng
Cùng hương ngó ngóng đồng bằng lúa xanh.
Im lìm không chút âm thanh.

Tàn phai một đóa ngọc anh.
Rơi thầm xuống lũng mong manh bóng hình
Hương trầm buông bỏ lặng thinh.

Đêm dài mong ánh bình minh.
Xuân xanh mơ đóa hoa xinh mai vàng.
Đông tàn, mai nở bạt ngàn.

Hoa cầu vạn hữu bình an.

ĐOÀN THUẬN

 

THỨC HOA

Một bông hồng vương tia nắng mai
nhụy phấn tan ra từ đỉnh gai,
cánh nhung rã tàn dưới lớp bụi,
sắc màu đâu giữ được hương phai.

Từ thuở hồng hoang của đất trời,
cây vạn mùa không mãi non tươi,
dưới mi đêm quỳnh hương trầm thức,
thoang thoảng dịu thơm qua cõi người.

Hạt mai như nhiên nơi sơn khê,
ươm mầm nảy lộc mong xuân về,
đâu biết nơi nao còn mọng dại,
lộc trời phả lạnh khắp bến mê.

Lá thắm tình xanh cùng thuyền quyên,
trôi dạt xa dần chốn lâm tuyền,
khuất mờ lặng lẽ vào cát bụi,

còn chăng sương khói chốn đào nguyên.

 

La Gi, 1972
CÁT SỸ







tranh của ElslysShen ko


DẤU HOA

Mùa hoa bâng khuâng
đường quê cỏ dại
bước ai xa dần.

Chiều trôi lặng thinh
mờ phai dấu cũ
ta về một mình.

Cát bụi trên vai
tháng ngày tiếp nối
thoắt ưu tư đầy.

Lời hoa xa xăm
chạm lòng hư vắng
vọng buồn trăm năm

ĐOÀN THUẬN

 

 

 

CHIỀU HOA RƠI


Tiếng chim nơi vách núi
làm rơi chiếc lá khô
rơi muộn giọt sương lạnh
rơi chiều xuống mặt hồ.


Chạnh lòng hoa mắc cở
dấu yêu một làn hương
cánh môi lá khép nép
chúm phấn nhạt màu hường

Viên cuội tròn khe suối
khuất biếc rong ven hồ
lặng yên chờ giấc ngủ
nghe chiều trôi vào mơ.

Người đã xa phố núi
đâu hay dã quì tàn
rơi mờ xuống lũng vắng
rơi buồn xuống đồi hoang.

          
Đà Lạt, 1968        





ĐÊM NGHE HOA RỤNG.



Hoa khẽ rụng theo bước khuya về chậm
trời lặng yên dìu dặt để đêm trôi
ta ngồi nghe hương lùa vào tóc rối
nỗi buồn xưa lan xa vào chân trời.

Trót lỡ bước, một đời ta phiêu bạt,
đã bao lần nghe rụng hoa bên thềm,
hồn viễn xứ mơ màng về đất cũ
bên sông xanh tìm vớt ánh sao đêm.

Khuya dịu lắng khúc tình ca mộng mị
phin cà phê từng giọt đêm phai dần
ru xác hoa vào màn sương bảng lảng
tưởng môi ai vừa chạm xuống bâng khuâng.

Trời Đà Lạt phố phường chợt tĩnh mịch
mái nhà xưa mờ giữa bóng hoa rơi
gió bấc thổi lạnh lùng đêm hương lửa
mẹ mong con tóc trắng tựa tơ trời.

Thu trút lá quanh cuộc tình cây cỏ
đường chia ly tàn nở biết bao hoa,
đời hữu hạn ta đâu lưu lạc mãi
tất sẽ về dù em đã vắng xa.

ĐOÀN THUẬN






NGHĨ VỀ HOA

Cùng hình bóng một loài hoa biển,
Buổi chiều tan theo bọt nước mau,
Để âm hưởng thủy triều mùa bấc,
Rì rào ru làn sóng bạc đầu .

Dưới ánh sáng một ngày mới rạng,
Muôn đóa hoa nở đẹp bên trời,
Như mộng mơ xuân tình hoa dại,
Với nguồn hương thanh khiết đầu đời.

Giữa cuộc sống cỏ cây hiển hiện,
Hương mùa xưa ấp ủ trong hoa,
Dù màu sắc phai tàn sinh diệt,
Nỗi phong sương không thể xoá nhoà.

Nơi sân trường, thư sinh áo trắng,
Trang sách thơm hương chữ bút nghiên,
Ngỡ chìm sâu trong vùng tâm thức,
Phượng vĩ thầm lưu bao niềm riêng.

La Gi, 1997.
ĐOÀN THUẬN




tranh của Roman velichko



SỐ KHÔNG
 trên
 MẶT LÁ
_______________________
Đoàn Thuận


         
           Đường đời mênh mông, phố xá đổi thay, người càng ngày càng thêm đông, càng lạ lẫm, biết tìm ai thật lòng thân thiện, tôi đành nói chuyện với chính tôi, qua cỏ hoa, qua con chữ
.                                 .
        
         Trên lối về xóm cũ, trước mặt tình cờ rơi chiếc lá vàng khô, âm thanh vang nhẹ khi thả xuống mặt đường. Trên mặt lá, con sâu không tên đã chạm nên một vòng tròn. Vòng tròn như số không, báo tin “không bạn”, “không em”, “không ai quen” nơi phố xưa. Tôi nhặt chiếc lá ép vào giữa hai trang lưu bút như ép vào trang giấy một khoảng lặng, nhưng không ép được âm thanh lá rơi.                       .

         Thời gian thản nhiên trôi, người say sưa rót chén ly bôi. Tiếng rơi giọt rượu hòa cùng tiếng rơi nước mắt, tiếng rơi chiếc lá như rơi giọt buồn
..

            ĐOÀN THUẬN


.

ĐỜI LÁ .


Vào thu, lá úa vàng khô.
Lìa cành theo gió giang hồ rong chơi.
Dừng chân bên cỏ chân đồi.
Cây xưa rừng cũ bồi hồi nhớ mong.

Lá như bè nhỏ trên sông.
Cùng bèo trôi dạt bềnh bồng về xuôi.
Đâu hay bàng lát ngậm ngùi.
Nghiêng mình lay lắt, dừng lùi về sau.

Lá thu xanh đã bạc màu.
Như tờ lưu bút nét sầu biệt ly.
Trường giang, lớp bụi biên thùy.
Hè sang cuống lá xuân thì nhạt phai.

Thu phong đông giá u hoài.
Sương sa, lá ướt ứa dài giọt rơi.
Mùa màng lặng lẽ nổi trôi.
Cây già lá chết, đâm chồi lộc non.

Thiên nhiên luân chuyển mất còn.
Cỏ hoa tàn tạ, vuông tròn một mai.

ĐOÀN THUẬN

 

 

THÂN LÁ VÀNG


Lá vàng tựa một cánh chim
nhẹ bay xuống đậu im lìm ngoài hiên.
Ngày nao xa lắc một miền.
Nay bên thềm gạch tịnh yên phố chiều.

Xóm nghèo hẽm vắng đìu hiu.
Một mình chiếc lá ít nhiều đơn côi.
Vàng hoe dáng vẻ bồi hồi.
Nhớ về nhành cội bên đồi xanh non.

Úa màu mặt lá héo hon.
Cuốn cong cọng nhỏ mõi mòn ngóng trông.
Bao mùa theo gió bềnh bồng.
Hương xưa với lá thong dong lưng trời.

Đôi khi một giọt sương phơi,
nằm trên lưng lá cùng rơi xuống đời.
Nắng thơm sương mọng thoảng hơi.
Bỏ quên thân lá rụng rời phiêu diêu.

Tình cờ lá xuống phố chiều.
Nằm bên rêu biếc buồn hiu bên thềm.

ĐOÀN THUẬN

 


LÁ THU KHÔ.


Lá khô rụng vào đất.
Theo thu sầu lê thê.
Cội già nuôi mầm mộng.
Chờ hoa xưa trờ về.

Người vắng xa ngày ấy.
Qua bao mùa hương quê.
Biết còn ai mong nhớ.
Lá rụng khua lối về.

La Dạ, 1965
ĐOÀN THUẬN




LÁ THẮM

Chiếc lá vàng khô rụng.
Gió thung đưa tiễn về cuối lũng.
Dù mùa chưa tàn thu.

Đồi cây cao vi vu.
Hơi mây mù theo sương lạnh giá.
Phả ướt hoa tàn tạ.

Kiêu sa dạ lý hương.
Yên nhiên thơm thảo bao đêm trường.
Bên hoa mua cỏ dại.

Bao sắc hình tím tái.
Ái ngại mùa trôi màu phôi pha.
Tươi non dần nhạt nhòa.

Lá thắm đầy cát bụi
Tình xanh sầu úa trong sương muối.
Tàn lụi vào tĩnh không.

ĐOÀN THUẬN




tranh của Tricia Cherrington


CHIẾC LÁ KHÔ.

Lá khô từ cõi nào xa.
Bay ngang hẻm nhỏ chiều tà im hơi.
Bỗng nhiên buông thả không lời.
Bên nền gạch vỡ rã rời hanh hao.

Thân khô cọng héo bàu nhàu.
Đong đưa mỏng mảnh rơi mau nhẹ hều.
Nằm im kế thảm xanh rêu.
Sau cơn gió thổi lêu bêu ngoài trời.

Lá đành ghé tạm góc đời.
Dựa lưng cát bụi dưới hơi sương mờ.
Lìa xa nhánh ngọn non tơ.
Hương mơ hoa mộng mịt mờ rừng xưa.

Một thời vui thú nắng mưa.
Nay như bóng lạ dư thừa chơi vơi.
Thu tàn lá úa vàng rơi.
Lạc loài một chiếc đơn côi lặng thầm.

CÁT SỸ



CHIẾC LÁ RƠI

Chiếc lá vàng khô bay trước cửa,
Hồn nhiên như thuở chưa lìa cành.
Chao nghiêng trước gió chiều thu muộn,
Lướt nhẹ qua thềm vạt nắng hanh.
Núi cổi chồi khô phai sắc biếc,
Rừng già đọt héo mất màu xanh
Năm tàn tháng tận ngày đêm bạc.
Phận mỏng phong phiêu âu cũng đành

ĐOÀN THUẬN 




ĐƯỜNG LÁ BAY.

Giữa đời bao nhiêu chiếc lá bay,
tách rời đọt nhánh thân cội cây
tàn tạ héo khô theo mưa gió,
khuất vào cát bụi trong bùn lầy.

Đôi khi non nớt chợt rời cành
gió hát ru đưa vào cỏ tranh,
xa nguồn nuôi dưỡng dần teo tóp
thành ra phân bón dưới rễ xanh.

Lá bay theo gió mây sương mờ,
rong ruổi phiêu diêu không bến bờ.
Chiếc trôi lênh đênh cùng sông nước.
Chiếc mắc vào gai rách xác xơ.

Gân may cọng mắn nhờ thời gian,
lá từ tơ lục sang úa vàng
rời rã rụng rơi rồi mục nát
đâu chờ đông tận hạ thu sang.

Thân lá phận người, một bóng hình.
Ngắn dài còn mất cuộc tử sinh,
Duyên số tuần hoàn theo nhân quả.
Đất trời luân lưu thoáng nghĩa tình.


ĐOÀN THUẬN 






*



CHIẾC LÁ

Sương thu bãng lãng qua đồi.
Rừng xanh gió lạnh thổi rơi lá vàng.
Cuộn theo cát bụi bên ngàn.
Nắng khô mưa ẩm thân tan nát dần.

ĐOÀN THUẬN





LÁ RỪNG


Thu sang ru lá vàng bay.
Sương mù gió hú heo mây về trời.
Đồi non cỏ cú im hơi.
Theo dòng suối nhỏ lá trôi xa mờ.

Rừng hoang bám rể đôi bờ.
Lá bay bỏ lại cành trơ trụi buồn.
Lá già héo úa thả buông.
Tả tơi mụt nát bên nguồn gốc xưa.

Lá non nớt tự đong đưa.
Như ngơ ngác trước cây thưa lá dần.
Đâu hay trong cõi phong trần.
Chồi xanh búp nõn tự thân cỗi cằn.

Lá mùa đi ở đôi đằng.
Bay xa về đất giá băng ven trời.
Rơi nằm dưới cội luân hồi.
Rã tan thành bụi nuôi đời cỏ cây.

Lá rừng đâu nhớ tháng ngày.
Nương theo sương gió nước mây bụi đời.
Dù hoa bên lá thơm hơi.
Nhưng đời lá thắm vẫn rời tình xanh.

ĐOÀN THUẬN


.


LÁ ME NON

 
Lá me rơi đầy trên mặt bàn,
sau ô cửa nhỏ, trong nhà ngang,
lặng yên như thể quên ngày tháng.
bên trang sách khép mùa hạ tàn,

 Đôi lá dìu nhau về muôn phương.
Khi gió heo may lạnh khu vườn.
Cơn mưa rào rạt qua mái ngói.
Lá sầu đâu trọ cạnh bờ mương.

Bút khô chữ đói, ngày nghỉ hè.
Hồn nhiên bụi phủ trang lá me.
lấp dấu mùa đi thân bé nhỏ,
bóng cũ hình xưa đã vàng hoe.

 Lũ lụt mưa dông, nước ngập sâu,
hoa rụng xuống đời, trôi về đâu?
Chiếc lá me non tuy màu nhạt,
vẫn như lưu niệm mùa học đầu.

 ĐOÀN THUẬN





*




LÁ DONG

Một chiếc lá Dong khô
lênh đênh trên mặt hồ,
thân phủ đầy cát bụi,
phận trôi nổi vật vờ.

Nắng, cong lên thành thuyền.
Mưa, bằng ra bè nghiêng.
Cát Bụi dần buông thả
vào hồn mùa như nhiên.

Bụi lắng xuống đầm lầy,
Cát ôm gốc cỏ cây,
chuyển hóa sang bùn đất
theo dâu bể vần xoay.

Dong chia tay Đất Bùn,
rời Cát Bụi mông lung,
bỏ quên hình bóng Lá,
Rừng xưa xa chập chùng.

Bè Dong trôi lang thang,
bạn cùng đám Lác Bàng,
thân với cánh Bèo dạt,
dưới trời mây mênh mang.

ĐOÀN THUẬN


 

LÁ DONG
  HỒ NÚI

Cây thu thả chiếc lá vàng
xuống hồ Núi Đất, bên ngàn Rừng Dong.
Sương pha, gió nhẹ, nước trong.
Lá men Bến Cỏ vào dòng Suối Sâu.

Con chim bói cá cúi đầu
thương duyên “lá thắm” phai màu “tình xanh”.
Nghiêng nhìn bóng nước long lanh
soi buồn lá ướt vượt gành rêu rong.

Giã từ Núi Đất Rừng Dong
Thân tàn phận úa phiêu bồng về đâu ?
Đồi Sầm Động Dứa Bãi Dâu
Phong lan cúc dại như sầu biệt ly.

Bảo bùng thổi lá Dong đi
Lác bàng sen ngó hoa qui tiễn đưa.
Lặng buồn, tu hú âm xưa.

ĐOÀN THUẬN







tranhcua3 Yun Shou Png




LÁ SEN NON.



Búp lá sen non trong lòng đầm.
trong dòng nước lạnh trôi âm thầm,
từ giã bùn lầy nơi gốc rễ,
vươn lên nhìn mây bay xa xăm.

Búp nở mặt xanh đón nắng vàng.
Thân tròn chạm nhẹ lớp bèo hoang,
cùng đám rong rêu, lục bình tím,
làm quen hiền hậu với lác bàng.

Đôi khi mông lung giữa đêm trường,
vô tình lá nõn hứng giọt sương,
mềm mại lăn êm khi gió nhẹ,
lá biếc sương lam thoáng vấn vương.

Lá ru sương buồn điệu lắt lay,
bên nhau qua khuya chờ ánh ngày,
nắng mai soi ấm gọi sương thức,
bốc hơi rời lá theo nước mây.

Lá tròn dưỡng dục búp nõn hoa,
thoảng hương thanh khiết bao chiều tà
Ngó nhìn Tim sen lưu tình Hạt,
yên nhiên trầm tích giữa ta bà.

ĐOÀN THUẬN



LÁ SEN GIÀ.

Ngó sen lên cao ngóng mây trời.
Ngàn năm mây trắng lửng lơ trôi.
đâu hay trong đầm, dưới liễu rũ,
lá sen tàn tạ màu pha phôi.

Bao mùa hanh nắng, mù sương pha,
bão rớt, mưa bay, gió lùa qua,
mặt lá xanh non dần vàng úa,
cằn cỗi nương thân búp nõn nà.

Mặt nước nâng lưng lá tan hoang.
dưới đóa sen hồng hương dịu dàng
bên cọng ngó nghiêng bầu trời rộng
xanh non thơ mộng như xa ngàn.

Lá già khô héo, rụng, rã rời,
tách ra từng mảnh, rách tả tơi,
mảnh chìm đáy nước thành bùn đất,
mảnh trôi mênh mang luôn chuyển dời.

Vạn hữu như nhiên tự phân thân.
Sen, lá tự tàn mục nát dần
lặn vào lòng nước bên cội rễ.
dưỡng nuôi mầm mộng búp thanh tân.

ĐOÀN THUẬN




LÁ SEN
và CÁT BỤI.


Một lá sen tròn như nia con,
rời xa đầm xưa, luôn mỏi mòn,
trôi nổi bồng bềnh nơi hồ vắng,
mưa dầm nắng quái thêm héo hon.

Qua bao mùa đi đời lang thang,

nước thấm sương pha màu úa vàng,
dần dà thân vướng đầy cát bụi,
phận mềm nặng nợ tình cưu mang.

Gió chướng thổi bay bụi xa vời.
Mặt hồ in bóng vòng rụng rơi,
lặng thầm nhập cuộc vào bùn đất.
trầm ngâm đáy nước, khuất mây trời.

Cát sạch bụi đời, còn lơ mơ
nằm trên thân lá trôi vật vờ,
chờ ngày qua bến bờ dâu bể,
thoát thời phiêu bạt, phận nương nhờ.

Nia sen chở cát dạo quanh hồ.
nước dâng dạt vào rễ cây khô,
ngụ tạm dưới trời, bên rừng đước,
rã rượi lắng vào cõi hư vô.

ĐOÀN THUẬN


 

*



LÁ MƯA ƯỚT

Mưa rào ướt lá vàng khô.
Đầm đìa lướt thướt như mờ lệ rơi.
Đã xa nhành cội đọt chồi.
Nay tràn lũ quét lá rời đất xưa.

ĐOÀN THUẬN





CHIẾC LÁ

và GIỌT SƯƠNG


Bão gió cuốn cỏ cây về ao rác
Lá héo nằm rách nát dưới sương mai
Giọt hương xưa còn lưu trên mép nõn
Đêm hoàng hoa ấp ủ mộng đời dài.

Hơn một lần hơi sương vào hư ảo
mang theo màu mắt biếc lúc thu phai
bỏ quên lá se lòng ôm giá lạnh
bên vườn hoang mộng mị nỗi ai hoài.

Lá vắt kiệt nhớ nhung khô giọt lệ
thân mỏng manh gầy guộc, sắc hao mòn
cuốn khô khốc tàn dần trong nắng quái
nhựa cạn nguồn tách lá buổi xanh non.

Lá vàng úa khi lìa cành bất chợt
dưới cội cây mục rã  mối mọt đầy
lũ trùng đất đùn lên như mộ chí
tưởng cùng sương hạnh ngộ cõi khói mây.

Giờ nằm đây trên lớp bùn quánh đặc
rác cuộc đời ngập ngụa giấc mơ hoa
nghe cát bụi thì thầm cùng giun dế
Lá cuối trời heo hút ngóng sương sa.

ĐOÀN THUẬN

 


BÈO XANH
chở
LÁ ÚA

Bèo xanh chở lá úa vàng
xuôi dòng kênh đước lang thang dưới trời.
Sông trôi, bèo dạt, hoa rơi.
Thân mềm, phận mỏng, mệnh đời phiêu linh.

Trầm luân mông muội sắc hình,
hoa tàn sen khuất vào sình lãng quên.
Bọt bèo rong ruổi lênh đênh
theo mùa nước nổi buồn tênh mọi đàng.

Lìa cành theo gió bạt ngàn,
”cuộc tình” lá thắm úa vàng ly tan,
với bao cát bụi mênh mang
bay đi “đắp mộ” tràng giang xa vời

Đâu ngờ trong cõi pha phôi
béo xanh lá úa cùng rời bến xưa,
nổi trôi dưới bóng nắng mưa,
bên nhau nương tựa qua mùa gió sương.

Kênh Vĩnh Tế,1969
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]





*

 

CHIẾC LÁ THƯ

Chiếc lá vàng bay ngang đời tôi,
như trang thư xưa chiều xa xôi,
mờ phai màu mực, nhòe nét chữ,
khô héo ngày xanh, mùa đơn côi.

Lá vàng in hình bìa phong thư
nhưng không lưu hương dòng tạ từ,
chiếc lá, tờ thư, dần rời rã.
Chuyện cũ người xưa, đâu thực hư ?

Đôi khi vương thầm trên tóc mai,
lá ướt sương rơi lệ trang đài,
chạm lên nỗi niềm, buồn ly biệt
trong cõi tĩnh không, năm tháng dài.

Lá thắm trôi xuôi theo dòng đời.
Bờ hoang, bên kia xuân hoa rơi,
hạ nắng thu mưa đông giá lạnh.
Bến đỗ, bên này một mình tôi.                                  .

ĐOÀN THUẬN



CHIẾC LÁ
và TÔI

Lá nào ghé lại bên tôi.
Đường trần cõi tạm đổi dời thực hư.

Lá rừng che xóm tản cư.
Cành nôm mái lá dựng từ lũy tre.
Ao chum nương rẫy đồi le.
Lá sen, lá lúa, lá chè, lá dâu.

Áo tơi nón lá chăn trâu.
Vướng đầy lá trúc lá dầu lá dong.
Trâu qua láng quạnh đồng không.
Gậm nhai lá cỏ, ăn rong lá bàng.

Nón rơm đội đến trường làng.
Lá me chợt rụng lên trang vở dầy.
Lá non mỏng mảnh hao gầy.
Tưởng như lưu dấu tháng ngày thư sinh.

Lá dương lá phượng lặng thinh.
Theo tôi lần bước hành trình tha phương.
Lá thư gửi lại bạn đường.
Tình xanh lá thắm sắc hương một thời.

Lá Rừng xanh biếc thơm hơi.
Mùa trôi thả lá vàng rơi khắp trời.
Lá Thư mực tím đôi lời.
Thời gian phả bụi trang đời bể dâu.

ĐOÀN THUẬN





 


*
tranh của Andrew Ferez



ĐOÀN THUẬN

dưới mưa
_______________________
TRẦN CÁT TƯỜNG




          Mùa gõ nhịp lên cung mây, làm ngân lên âm điệu mưa rơi, nghe xa như lời hát cỏ cây giữa quãng lặng thiên thu. Tiếng mưa hòa âm cùng tiếng sóng bờ nước, tiếng gió hú núi rừng, tiếng xạc xào lau sậy. Mưa ru dài bờ cõi hoang vu không tháng ngày                                       .                                            
Mưa ở đây, mưa phương nào                              
nghĩ như điệu hát chạm vào thiên thu                
từ trong quãng lặng mịt mù.

Lá khô rụng để vàng thu.                         
từng hạt mưa, từng hạt mù sương bay.             
trong hoang vu chẳng tháng ngày.
 

            Giọt mưa thả rơi nốt nhạc rừng xanh rì rào cùng sông suối róc rách, chạm vào vách đá khe núi, dội lên tiếng sấm ầm ì non xa, âm vang tiếng côn trùng muông thú. Mưa ngấm vào đất đai cát bụi gió sương, thấm sâu vào mảng  màu tự nhiên, vào dấu lặng mùa màng. Sau mưa, tiếng ếch trầm bổng vọng về từ cánh đồng xa, từ ao hồ đầm trạch, từ lòng giếng hoang sâu lạnh đầy hư vắng.   

Khi rừng đêm dứt tiếng mưa.                        
những con ếch vắng vội lùa lạnh sang                 
tiếng buồn khuya vỡ trên ngàn                          
chạm lên vách cũ rêu vàng đã lâu.

Tưởng trong lòng giếng hoang sâu                      
một viên cuội rớt xuống màu thời gian.                                                                                

        Mưa lất phất những hạt nước như sương chạm hờ lên mảng rêu khô trên mái phố. Đôi con chim ngói vỗ cánh bay vào hiên vắng trú mưa. Gió heo may lùa hương hoa qua kẽ lá ướt, vi vu một khúc nhạc du dương giữa chiều lặng tĩnh.

Hạt mưa rơi êm trên mái ngói              
một điệu blues rời nghe quen mênh mang                  
chạm hờ khoảng lặng đàn chim sẻ                   
nhịp cánh nhẹ bay theo chiều vàng                     

         Mưa mang đến nguồn nước nuôi sống muôn loài nhưng mưa cũng đổ xuống lũ lụt gây nên cảnh đời tang thương. Khi mưa không rơi, không gian hanh hao, khe cạn suối khô, cỏ cây lụi tàn, ruộng vườn nứt nẻ, dân nghèo khốn cùng.

           Nhưng khi Trời đổ mưa tầm tã.                    
Lũ tràn qua hoang mạc,lạnh lùng dâng cao            

Nước giận dữ  từ núi dội xuống như thác,                           
cuồn cuộn trôi mau tràng giang không bến bờ,    
chảy xiết xoáy sâu xé toạc gò đống                 
Đất giật mình sạt lở kéo sập cửa nhà
.

Mạng  sống lửng lơ trên ngọn cây                       
Của cải một đời cùng mọi thứ cuốn phăng về biển         
Chỉ nỗi đau ở lại với người trong tiếng thở dài.

        Trời lắm lúc giận dữ thổi về những cơn bão, ào ạt đổ mưa mù mịt đường đời. Đất nổi dậy dâng nước lên cao cuồn cuộn cuốn trôi bao thứ rác rưởi hôi tanh.       

Nước xoáy dữ mọi thứ dồn cứng nghẹt họng cống.
Không ngõ trôi, rác rưởi đọng lại bên đường đời   
Lũ chuột nhắt, trốn mưa, rụt đầu khe tường nứt       
Bẩn thỉu thối tha ô nhiễm khắp đất trời.             


        Mưa theo mùa rơi, lâm râm trên mặt hồ, phất phơ ngoài bờ liễu, rạt rào qua mái phố, tí tách nơi thềm hoang, nhiều khi lấm tấm ướt một trang giấy.                                                 

Mùa nghiêng mưa xuống hồ đời,                          
ta nghiêng hồn xuống chơi vơi nỗi niềm.

        Mưa lạnh lùng rơi trên nỗi buồn vui muôn đời. Dưới mưa, kẻ yên vui đầm ấm tình thêm đậm đà, người nghèo khổ cô đơn nuốt giọt lệ thầm héo hắt muộn phiền.

mưa. vẫn mưa mãi mà                                      
mưa ru tình đậm đà                                  
mưa thêm người héo hắt                          
vui buồn đâu riêng ta.

       Từ chốn nước mây, mưa vần vũ tạt qua cõi đi về, dầm dề ẩm ướt miền đất trọ, mịt mùng che khuất bóng phố cũ quê xưa.                         
mưa rơi nghiêng chiều tà                              
mưa theo mùa đi qua                                
mưa lạnh miền đất cũ                                      
mưa nhạt nhoà phố xa.

Mưa vương trên mái tóc đầu trần người lầm lủi đi tìm một chỗ trọ bình yên  Mưa xóa mờ dấu chân, thời thư sinh hoa mộng, trên đường về mai sau. Phương này phương kia cách biệt. Mưa mãi rơi, bùn lầy ngập lối đi về.

Có người lầm lủi trong mưa                  
Nhặt dăm cánh phượng rơi thưa phương này        
Hương mùa theo chiếc lá bay                   
Phương kia cúi nhặt dấu giày rêu phong.

        Nơi đất lạ phương người,thủy thủ neo thuyền trong đêm mưa, ngóng về bờ bến xa khơi nơi chân trời vô định..

Mưa đêm rơi đầy nơi chân trời                     
biết đâu thuyền neo khuya bên đời                  
lối cỏ hoa mờ trong khói sóng                     
lửa chài thấp thoáng bờ xa khơi.

          Khách tha phương dừng chân nơi quán trọ, nhìn bóng mưa nhạt nhòa ngoài hiên, nhìn cánh mây trôi nổi vào không gian mịt mùng, thêm xót xa cho  phận đời luân lạc.

Mưa rơi hiên ngoài vẫn mưa rơi                     
mưa sao mưa mãi một phương người                 
biết đâu lòng ta nơi quạnh vắng                    
xót một loài hoa trong mưa phai.

          Từ nơi lạ lẫm quạnh hiu, đứa con xa quê không nguôi mong về chốn cũ, cùng mẹ cùng em bên bếp lửa ấm đêm mưa.

Đêm nay mưa hoài, mưa chập chùng           
thương mẹ già nua phố bên sông                  
ta mơ bếp lửa chân trời cũ                      
phương nọ phương này trời mênh mông.

         Bao mùa mưa trôi qua, Mẹ đã vắng Thầy đã xa,  họ hàng lưu lạc, nhà xưa đổi chủ, còn chăng chỉ là bóng rêu phong bên thềm hoang lạnh, bầy chim se sẻ bay xa dần trong mưa mù.

Bầy chim sẻ trú mưa cuối bờ cây                    
Chẳng còn ai về ngang nhà vắng                        
Tiếng hót nhạt dần theo cánh mây.

          Mưa núi, như giọt lệ trời, rơi trắng một không gian kỷ niệm, một quãng đời hoa niên. Mưa gột đi vệt bụi ban sơ bám dính vách tường loang lổ lâu đời.Tiếng mưa, như tiếng thời gian, át tiếng hát hồn nhiên, lắng im cung đàn thánh thiện.

Mưa dội xuống con đường về tháp cổ                                 
gột bụi rêu bám úa mấy tường hoang                  
nơi lầu tây đâu còn ai hát nữa                     
cõi thơ ngây vắng bặt một cung đàn.

Nơi quê nhà, đôi điều như đã phôi pha theo bóng thời gian, khuất lấp vào mưa nắng. để cơn mưa nhớ thương tạt ướt bờ ký ức.

Ta về đây một mình chiều mưa núi                   
chợt tình quê lay lắt gió tha phương                 
từng cơn nhớ tạt vào bờ quên lãng                  
bếp tro tàn hương lửa lạnh đêm suông.

          Bếp lửa nhà cũ,mưa dập tắt, còn lại tàn tro. Đứa con bao mùa xa Mẹ chưa kịp hồi hương, lại từ biệt đội mưa ra đi. Sương gió cuộc đời pha bạc mái tóc phong trần. Bước mỏi tha phương lần theo cát bụi tìm chốn nương thân. Nơi đất trọ Sài Gòn, trong tháng ngày xế bóng, mưa lại rơi buồn trong trí nhớ.

Mưa rào tạt qua Saigon phố cũ
tưởng chiều xưa em dạo chơi vườn hồn ta
giọt mắt buồn rơi quên trong trí nhớ
giọt mưa trái mùa của bao mùa thu xa.

        Cơn mưa trái mùa đã xô dạt bao người về phương xa, bỏ lạnh miền đất trọ cũ cùng bao mảnh đời ly tan.

Mưa như mưa chiều nay                         
đường về rơi lá đầy                                      
cố quên người, vẫn nhớ                                  
thu nào không heo may.

         Mưa chiều nay mưa chiều xưa, mưa nơi này mưa phương nào, đã tạt ướt một tâm hồn.

Mưa từ xa lênh đênh                                  
kỷ niệm nào mông mênh                               
mưa rơi từ nỗi nhớ                                
mưa tạt vào cõi quên.

          Mưa như nhiên rơi muôn đời. Giọt mưa đã thấm ướt một trang viết.Du tử dưới mưa buồn một mình.

Xin trời đừng đổ mưa thêm                
Giọt xưa đã thấm ướt mèm trong nhau.


        
Thảo Điền, 2014                         
         TRẦN CÁT TƯỜNG.




BÓNG MƯA



Mây về núi vắng rơi mưa
hoa nghiêng bóng đợi từng trưa từng chiều
trăng rừng trở giấc cây xiêu
xuôi đêm thức nhớ nhung nhiều mắt ai.

Nắng đi ngày một ngày hai
cây chon von đỉnh dốc dài ngóng xa
truông rừng sương phả chiều qua
đèo heo hút bóng người đà cô liêu.

 

  ĐOÀN THUẬN


MƯA

mưa. vẫn mưa mãi mà
liễu bờ xưa thướt tha
mưa ướt bờ vai nhỏ
mưa giăng mờ bóng hoa.

mưa rơi nghiêng chiều tà
mưa theo mùa đi qua
mưa lạnh miền đất cũ
mưa nhạt nhoà phố xa.

mưa từ xa lênh lênh
kỷ niệm nào mông mênh
mưa rơi từ nỗi nhớ
mưa tạt vào cõi quên.

mưa. vẫn mưa mãi mà
mưa ru tình đậm đà
mưa thêm người héo hắt
vui buồn đâu riêng ta.

ĐOÀN THUẬN

 

*



 MƯA XUÂN

Mưa xuân mang bụi nước mây.
Lưa thưa sợi mỏng nhẹ bay ngang đời.
Từ mùa đông giá sương phơi.
Dư âm hoa mộng tiếng rơi giọt buồn.

ĐOÀN THUẬN




MƯA PHÙN

Mưa phùn phơ phất ngang hoa.
Làn hương dịu lắng vào xa núi rừng.
Hơi xuân buông thả dửng dưng.
Cùng mây sương khói ngập ngừng dưới thung.

ĐOÀN THUẬN



GIỌT NƯỚC

Giọt mùa rót lạnh mái xưa.
Hạt chưa hủy thể, hạt chưa sang mầm.
Sắc màu từ cõi lặng câm.
Hóa thân trong giọt nước trầm mặc kia.

Đoàn Thuận





MƯA XA MƯA GẦN

Mưa xa rồi lại mưa gần.
Hạt mưa rụng xuống từ tầng mây cao.

Mây đêm che khuất ngàn sao.
Mây ngày tựa tấm khăn lau mặt trời.
Mây nương bóng khói làn hơi.
Không trung đủ ẩm thành đời hạt mưa.

Có khi theo ngọn gió đưa.
Phất phơ từng hạt lưa thưa ngoài trời.
Lăng tăng rơi lạnh núi đồi.
Nghe xa tựa nhạc không lời dịu êm.

Có khi y giọt sương mềm.
Rơi trên cát bụi bên thềm nhà hoang.
Tiếng rơi như những nhịp đàn.
Gõ trên phím đá đã vàng sắc rêu.

Mưa xa rĩ rã lêu bêu.
Tự buông trên lá nhẹ hều lâm râm.
Mưa gần nhiễu điệu thanh âm.
Ngỡ bao tiếng thở của âm dương buồn.

La Gi, 1976
Cát Sỹ




*


 MƯA NÚI

Mưa ào ạt, gió bạt ngàn đỉnh núi.
Cây ngã nghiêng, cành nhánh bay ngang trời.
Cuội lăn lóc tuột trần vào hóc đá.
Khe nước tràn cát bụi tấp chân đồi.

Mưa dội xuống con đường về tháp cổ
Gột rong rêu bám úa mấy tường hoang.
Nơi lầu tây đâu còn ai hát nữa.
Cõi thơ ngây vắng bặt một cung đàn.

Mưa phơ phất xoá mờ dần đỉnh tháp.
Lá khô vàng rơi rụng theo cánh hoa.
Mùi cỏ mụt thoáng nồng qua ký ức.
Tưởng như trời nhỏ lệ ướt thung xa.

Ta về đây một mình chiều mưa núi.
Chợt tình quê lay lắt gió tha phương.
Từng cơn nhớ tạt vào bờ quên lãng.
Bếp tro tàn hương lửa lạnh đêm suông.

Đoàn Thuận



MƯA LŨ


Khi trời hạn nứt đất đai.
Lúc triều dâng lở bãi dài triền miên.
Nay mưa ngập lụt bến thuyền.
Điếng lòng nghe bão rớt miền quê xa.

Một vùng đồng cỏ bao la.
Lũ mông mênh nước, gió và mưa rơi.
Lúa non chìm đáy sông trôi.
Xuồng con neo lạnh trên đôi nóc nhà.

Cánh cò trắng khuất về xa.
Em thơ khuất giữa màu hoa lục bình.


CÁT SỸ



MƯA ĐỔ LỆ

Sài Gòn tầm tã mưa rơi.
Đường xe đại lộ nước trôi thành dòng.
Thản nhiên cuồn cuộn thong dong.
Tràn vào hè phố tịnh không bóng người.

Rì rào trên khóm hoa tươi.
Công viên im bặt tiếng cười bước chân.
Nhà hàng khách sạn cao tầng.
Hẻm con quán trọ xa gần lạnh tanh.

Ào ào mưa nhiễm dịch nhanh.
Từng nhà kín cửa, khắp thành cách ly.
Người nghèo đói, chẳng còn gì.
Dầm mưa rời khỏi kinh kỳ về quê.

Âm mưa buồn rụng lê thê.
Nghe như đổ lệ tái tê cõi lòng.
Đưa người về bến tĩnh không.
Nỗi niềm ly biệt theo bồng bềnh mây.

Đoàn Thuận




*




MỘT CHIỀU MƯA

Đò ngang bến đổ chiều mưa.
Không lời ly biệt người xưa xa mờ.
Ta về nghiêng nón đợi chờ.
Mưa buồn rơi lạnh xuống bờ thùy dương.
.
ĐOÀN THUẬN






ĐỒI SIM CHIỀU MƯA


Đồi sim trời mưa mãi
khúc nhạc chiều mùa đi
một đóa hồng nhung đỏ
một dòng suối thầm thì.

Tôi như người thủy thủ
chiều neo thuyền giữa đời
nhớ con đò bến cũ
dòng sông mùa êm trôi.

Đóa hồng lặng lẽ nở
khúc nhạc rừng êm du
bên đồi hoa mưa mãi
nỗi buồn nào mơ hồ.

Năm tháng không ở lại
khúc nhạc chiều mùa đi
một đóa hồng nhung đỏ
bến suối mưa thầm thì.

ĐOÀN THUẬN





LA DẠ MƯA

La Dạ, mưa đêm rơi,
rơi nghiêng túp lá tời,
rơi lạnh đường rừng vắng,
rơi mù nơi chân trời.

Mương nước đầm đìa trôi.
Ếch kêu như nghẹn lời.
Sấm rền dài đồng lúa.
Điệu nhạc đêm bồi hồi.

Trường La Dạ thôn xưa,
thì thào qua làn mưa,
tiếng học bài cuối hạ
lâm râm giọt âm thừa.

Gió ru cành dã quì
làm nhớ bao mùa đi,
nhớ trường làng xóm học,
bút nghiên buổi xuân thì.

Giờ đây nơi phương xa,
qua bóng mưa nhạt nhòa,
tưởng nghĩ về La Dạ,
bên nhau dưới mưa hoa.

CÁT SỸ





HOA MUA TÍM
CHIỀU MƯA

Mây không dưng rơi mưa ngày thu phân.
Bầy chim rừng đâu kia bay xa dần.
Một sắc tím thẳm chiều bên bến nước
Nhành hoa mua phơ phất dáng bâng khuâng.

Mưa như sương bay nghiêng mù ven sông
Con đò ngang neo mưa chờ xuôi dòng.
Đóa hoa lạnh khép hờ cánh môi tím.
Chiều tạc màu mây nước vào hư không.

Đời hoa mua hồn nhiên xanh thời gian.
bên đồng không, ven đìa cây đầm hoang,
trổ hoa tím, điểm vàng, hương phong nhụy
để một lần tím rụng buồn sang ngang.

Dòng sông đưa con thuyền đi xa xôi.
Hoa mua theo sông trôi về chân trời.
Người từ biệt khuất dần trong chiều tím.
Người quay về tím tái hồn đơn côi.

      ĐOÀN THUẬN



*



BẾN SÔNG MƯA

Đưa người qua bến sông mưa.
Hoa lục bình tím như chưa kịp tàn.
Chiều đầy sóng nước mênh mang.
Chợt đôi bờ rộng một tràng giang xa.
.
ĐOÀN THUẬN



 HẠT MƯA và DÒNG SÔNG

Bao tia nước khuất về xa.
Từ nguồn mưa móc bao la cõi trời.
Từ làn mây nước chơi vơi.
Cùng sương tích tụ, mưa rơi xuống đời.

Mưa mù mịt khắp núi đồi.
Nước tràn gành thác thầm trôi qua rừng.
Mạch ngầm lắng đọng nên bưng.
Ao chum ngày cạn, nước lưng đầm hồ.

Bảo bùng lũ quét sóng xô.
Mưa nguồn soi mở đôi bờ dòng sông.
Sông qua rừng thẳm non bồng.
Qua bao làng mạc, cánh đồng lúa non.

Đôi khi sông cạn đá mòn.
Bên bồi bên lở, mất còn đục trong.
Sông xuôi về biển mặn nồng.
Bóc hơi theo nắng phiêu bồng cùng mây.

Trầm luân theo bóng tháng ngày.
Trời cao trả hạt mưa mây cho đời.
Sông xưa đầy nước êm trôi.

CÁT SỸ



MƯA TẠNH TRÊN SÔNG

Tạnh sông dải lụa ngang chiều.
Một làn khói mỏng làm xiêu cây bờ.
Ngờ như chiếc lá bâng quơ.
Tiếng chim se sẻ chạm hờ vào hoa.

ĐOÀN THUẬN


 

* 

 

 

NHẠC MƯA


Mưa rào qua mái tôn nghiêng.
Nghe như điệu nhạc “độc huyền cầm” xưa.

Rì rào lộp độp tiếng mưa
Lăn tăn tí tách lưa thưa là đà.
Ù ù gió hú ngân nga.
Chạm lên phím gạch âm ba dội buồn.

Bổng trầm gõ nhịp nước tuôn.
Trường canh lặng lắng hồi chuông đêm tàn.
Độc huyền ngủ lạnh nhà hoang.
Mong mùa nhỏ nhẹ cung đàn gió mưa.

Sấm rền vọng lại âm thừa.
Vời xa bóng khói đong đưa không lời.
Đầm hồ nắng rọi lên hơi.
Từng làn mây nước chơi vơi ngang trời.

Thiên thu mưa tạnh lại rơi.
Như bao số phận đổi dời bể dâu.
Mây Hàng lờ lửng về đâu.
Lại buông thả giọt Mưa Ngâu xuống đời.

An Nơn, 1969
CÁT SỸ

 

 

ÂM MƯA RƠI                                                                          


Những hạt nước rơi rơi trên mái tôn
Những âm mưa lâm râm trong hoàng hôn.
Như bản nhạc không lời không nhịp gõ.
Giao hưởng buồn mênh mang điệu tâm hồn.

Người nhạc trưởng, từ trời, dạo khúc nôi.
Piano, sương gió đệm âm rời.
Giọt long bong, từng tiếng rơi lộp độp.
Giữa trường canh, một khoảng lặng mây trôi.

Sấm đì đùng như trống vỗ vang rền.
Rừng trúc ru tiếng sáo, mưa lênh đênh.
Dòng suối con róc rách theo đường cũ.
Bồng bềnh trôi cỏ rác bị bỏ quên.

Mây trời xanh thành hơi nước, mưa tuôn.
Nơi núi sông lạnh buốt cánh chim muông.
Gió hú gọi lá vàng bay vi vút.
Làng quê nghèo đọng lại những giọt buồn.

ĐOAN THUẬN



TIẾNG ẾCH ĐÊM MƯA


Khi rừng đêm dứt tiếng mưa.
Đôi con ếch vắng vội lùa lạnh sang.

Âm hồn khuya vỡ trên ngàn.
Chạm lên vách đá rêu vàng bụi nâu.
Chạm vào lòng suối hoang sâu.
Vào viên cuội nát úa màu thời gian.

Òn ênh nhịp gõ địa đàng.
Vang lên tận áng mây Hàng trời xa.
Rơi rơi từng giọt âm ba.
Trên hàng liễu rũ bến phà đìu hiu.

Gió đưa tiếng nhái liu riu.
Ru bờ cỏ dại buồn thiu đêm dài.
Hiên ngoài nước chảy dần phai.
Vẫn nghe tiếng ếch u hoài vẳng xa.

CÁT SỸ



*



MƯA PHUONG NGƯỜI


Rồi mai em về thăm quê hương,
biết đâu riêng tôi còn tha phương,
cánh mây trôi nổi theo chiều vắng,
vào không gian bao la phong sương.

Mưa đêm rơi đầy nơi chân trời,
biết đâu thuyền neo khuya bên đời,
lối cỏ hoa mờ trong khói sóng,
lửa chài thấp thoáng bờ xa khơi.

Mưa rơi hiên ngoài vẫn mưa rơi,
mưa sao mưa mãi một phương người.
biết đâu lòng tôi nơi quạnh vắng,
xót một đài hoa không còn tươi.

Đêm nay mưa hoài, mưa chập chùng,
thương mẹ già nua phố bên sông,
tôi mơ bép lửa chân trời cũ
phương nọ phương này trời mênh mông.

ĐOÀN THUẬN




KHÔNG MƯA NƠI EM


Mưa, không mưa nơi em
sao ướt bờ vai mềm
mắt chiều như sương đọng
xa nhau rồi, buồn thêm.

Điều gì còn cho nhau
ánh trăng nơi mái lầu
đôi dòng thư đã cũ
hoa tàn hương phai mau.

Mưa, không mưa chiều nay
đường về rơi lá đầy
cố quên người, vẫn nhớ
thu nào không heo may.

Chiều trên đồi cây xanh
ta gặp lại chính mình
trong vô cùng sắc cỏ
lời buồn không âm thanh.

ĐOÀN THUẬN

 

*



GIỌT MƯA

Ngửa tay hứng giọt mưa đầy
Tưởng như lời của một ngày thung xa.
Tưởng hương của một loài hoa.
Vương vương một thoáng chiều tà trong cây.


ĐOÀN THUẬN



MƯA PHỐ XA

Ai ngồi hát cuối phố mưa
Nghe xa như điệu ru xưa không lời
Điều gì lẫn quất trong đời
Thầm thì như hạt bụi thời bỏ quên.

ĐOÀN THUẬN



PHONG THƯ CHIỀU MƯA

Phong thư từ xứ lạnh,
địa chỉ miền núi đồi,
nằm yên bên chiều trôi
ngủ quên con tem nhỏ.

Gió thu lùa qua phố.
mang theo làn hơi mây.
dăm chiếc lá khô bay.
vu vơ ngoài hiên vắng.

Mưa rào xóa thinh lặng
ru nhạt nhòa hàng me
sủng nước con chữ nhòe
dòng thư ướt im tiếng.

Hẻm cụt mưa tắt điện,
bóng tối như bồi hồi
mong ngóng giọt sáng rơi
soi lên trang lưu bút.

Mưa loang phai màu mực
đâu hay thư viết gì
giữa mùa hoa lưu ly
buồn thấm vào kỷ niệm.

  
ĐOÀN THUẬN


*


DƯỚI MƯA

Có người lầm lủi trong mưa
Nhặt dăm cánh phượng rơi thưa phương này.
Hương mùa theo chiếc lá bay
Phương kia cuối nhặt dấu giày rêu phong

ĐOÀN THUẬN


 

ĐỤT MƯA

Đụt mưa chiều dưới hàng cây.
Làm ta chợt nhớ một ngày xa em.
Xin trời đừng đổ mưa thêm.
Giọt xưa đã thấm ướt mèm trong nhau.

CÁT SỸ




HẠT MƯA và TÔI.

Ngày tàn thu hạt mưa rơi lê thê.
Người đội mưa ra đi không thấy về.
Dù hẹn ước chờ nhau nơi xóm học.
Dù tàn phai phượng vĩ bao mùa hè.

Về trường cũ dầm mưa một mình tôi.
Áo trắng xưa thư sinh đã xa vời.
Âm mưa rơi rạt rào lùa tiếng trống.
vào lặng thinh trong ký ức bồi hồi.

Trang lưu bút ngủ quên dưới bụi mưa.
Giọt mắt nhòe màu mực dòng thư xưa.
Nhưng nỗi nhớ một thời đâu nhòa nhạt.
Dù tháng năm ru buồn mưa lưa thưa.

Bao mùa trôi miên man qua đường dài.
Màu mưa pha chân trời như không phai.
Vẫn in đậm bóng hình làng quê cũ.
Hạt mưa xưa thấm lạnh nỗi u hoài.

ĐOÀN THUẬN

 

 





tranh của Brian Mc Carthy





NGHĨ VỀ THƠ ĐOÀN THUẬN
qua LỬA ĐẤU NON
___________________________________________
Tg. LÝ MINH     





           T
rên đường truy tìm bản ngã, nhà thơ luôn chới với, hụt hẫng, cô đơn tưởng chừng không gì bù đắp nổi. Một hình ảnh người yêu đầu đời, một tà áo lụa bay trong nắng sớm chiều mưa, cho dù hạt chưa hủy thể hạt chưa sang mầm và những gì thuộc quá khứ êm đềm: mái trường rêu phong, người thầy học cũ, sách ám bụi dày, xác ve rầu rĩ, cánh phương tàn rơi v..v..

Nơi đó,                         .
Có người lầm lủi trong mưa                 
Nhặt dăm cánh phượng rơi thưa phương này        .                
Hương mùa theo chiếc lá bay                   
Phương kia cúi nhặt dấu giày rêu phong.          

để rồi,                           .
Nốt trầm trong giọt mưa rơi.                     
Tan vào hạt mặn thành lời biển xanh

            Còn nữa, một khoé nhìn ấm áp của ai đó lúc đầu đông, một nụ cười thoáng qua bên đầu đường, góc phố, sân ga, bến đò, trên sông nước một dáng dấp thẹn thùa bên hiên nhà ai, một câu chuyện ngắn ngủi nhưng tình cờ và vu vơ ở khắp mọi nơi. Để                                        
Đôi khi nghe mặn môi cười                      
Trong muôn lá rụng có lời hạnh hoa                   .
Và: :
Dấu chân mùa đã lên rêu                       
Bờ hoang vu đọng ít nhiều bóng hoa.

              Tất cả những điều ấy, đều có thể làm cho nhà thơ xao xuyến, xúc động, bàng hoàng như mới gặp gỡ lần đầu. Do đó, mà nhà thơ tự bắt buộc phải biết trầm tĩnh, trang nghiêm với con người và đất trời vũ trụ bao la. Đôi khi nhà thơ còn xúc động bàng hoàng trước cái chết của tảo rong, đơn bào huống chi là sinh mạng con người càng quí hiếm xiết bao.

             Rốt cuộc nhà thơ sẽ đem vào thơ những gì gây xúc động mà hắn ta – gặp gỡ như duyên nợ trên đường đi tới.            .                           .

Khi mù sương phủ đêm khuya,                              
Bên bờ suối vắng bên kia phố phường                                            
Ngựa về mỏi vó tha phương                               

Một áng mây nổi một trường giang trôi.

Tuy nhiên trong cuộc tìm kiếm bản ngã, nhà thơ thường bị nổ tung: Phân mảnh đến thành cát bụi, thành hư vô ? Trong trường hợp chưa nổ tung, có người muốn nổi loạn, giông bão… có người muốn lên núi, lên tiên, ngồi thiền, làm thầy tu, nhà ẩn dật, đi “tiếu ngạo giang hồ” v..v.      .
         Tất cả xét về mặt tinh thần đều để xả bớt năng lượng tích lũy – nên muốn làm gì cũng tốt bởi đó là hiện tượng của bản chất hiền hoà đáng yêu và ở đây lại là bản sắc rất cần thiết cho mọi nhà thơ và hình như hầu hết các nhà thơ trượng phu Phương Tây-Phương Đông đều sẵn mang trong người tư tưởng bẩm sinh như thế. Nhưng với Đoàn Thuận lại rặt một bản sắc Phương Đông hiền hoà:              .
Nơi nào còn một đào tiên,                    
Một Đông Phương Sóc một miền lãng du.                                        

Và, :
Có hàn sỹ nhặt chiều tà                                
Khuất trong núi vắng lời ca thu vàng

.….hoặc chui vào hang động lần theo dấu chân quá khứ của tổ tiên loài người, và cũng đôi khi đi hia bảy dặm vào đáy sâu thẳm của tương lai, để nhìn tận mặt những gì còn tìềm ẩn giấu kín đằng sau: Lớp lớp thời gian và tầng tầng không gian vô cùng bí hiểm. Nhưng sau cùng chỉ còn lại trên tay nhà thơ: hai nửa mảnh tim vỡ đôi; một nửa mảnh tim vỡ đôi  trao cho người mẹ, người vợ thủy chung hoặc người yêu dang dở…

          Còn một nửa mảnh tim vỡ đôi kia. nhà thơ giữ chặt trong một bàn tay, làm tấm gương soi và tiếp tục lên đường truy tìm bản ngã.           
                    
Tuổi thơ ngày tháng lui dần.                   
Phố quen lối phố ta ngần ngại ta.

           Tôi đã từng bắt gặp hầu hết nhà thơ mà tôi đã đọc từ lúc biết yêu thơ đều na ná giống nhau về hiện tượng về bản chất và cũng rất giống nhau trong nỗi buồn man mác vạn cổ sầu. Mặc dù mỗi nhà đều tự bắt buộc phải có bản sắc riêng, để tránh nhàm chán và điều ấy không dễ chút nào.  Tâm hồn chân thật, thi pháp, kỹ thuật, từ ngữ, ngôn phong và không ít thứ khác nữa làm nên bản sắc cho mỗi nhà thơ. Thế nhưng trong các thứ linh tinh lang tang ấy mà hội đủ, chỉ để, thiếu tấm lòng yêu thương chân thật và sôi sục là hỏng bét. Vâng, chỉ có tấm lòng.                                  .

Trong chiều mẹ hát bên nôi.                  
Nỗi niềm ru khuất vào lời bể dâu.                   



Người về trước biển xa khơi                      
Bên bờ cát trắng và đồi dương xanh.                                
Xa đưa tiếng sóng cuối gành                       
Ngỡ như lời mẹ ru quanh cõi này.

……..Đường về, Dưới mưa là đẹp nhất Lửa Đầu Non. Tập thơ với một nội dung nhân hậu, hình thức mới, một tài tình – một tấm lòng chân thật gợi mở đến nao lòng.Tấm lòng được tán mịn mượt mà nhuyễn rắc từng con chữ thơ của riêng anh. Thật không ngờ anh lại dấn thân say mê mãnh liệt đến thế.   .         

        Mặc dù tôi vẫn tin luôn còn có những nhà thơ dám bứt phá vượt thân phận, bắt gặp bản ngã với một tình yêu tha nhân vô hạn. Và cũng quyết tâm vượt bờ mê, bến lú, đặng mà, dám ném luôn một nửa mảnh tim vỡ bản năng  xông lên Vườn Thơ hái đầy hai tay vô vàn đóa  Tinh  Hoa – mang về Hôm Nay, hiến dâng cho Quê Nhà của nhà thơ, cho Mẹ hiền, người vợ thủy chung, người yêu dang dở,  người thân, bạn bè và tất cả những ai yêu thơ.  .

            LÝ MINH

 

ĐỐM LỬA

Hạ sang rớt giọt mưa nguồn..
Nhớ câu lục bát ru buồn nhân gian.
Mờ xa đốm lửa trên ngàn..
Giọt sương cõi tục đã tràn mắt đêm.

ĐOÀN THUẬN




LỬA ĐẦU NON

Người đi tìm cõi vô cùng
Mơ thiên thai thuở mông lung mất còn.
Mộng hoàng hoa đỉnh chon von.
Ta về nhóm lửa đầu non nhớ người.

Nụ đời đâu mãi xanh tươi.
Mùa trôi bụi lấp môi cười một mai.

ĐOÀN THUẬN




LỬA BÊN RỪNG

Ở đâu một cõi vô hình.
Ở đâu một cõi lặng thinh chân ngày.
Mẹ về có nhẹ cánh mây.
Có quên được những tháng ngày gió mưa.

Quê này tiếng sóng đong đưa.
Nghe như điều hát ru xưa bao lần.
Để khi chiều xuống bâng khuâng.
Lời ru trong nỗi nhớ gần nhớ xa.

Cõi đời này Mẹ đã qua.
Tóc tơ trắng cát bụi nhòa sau lưng.
Con đêm nhóm lửa bên rừng.
Còn nghe lạnh lẽo lưng chừng núi non.
 
ĐOÀN THUẬN


*



MƯA ĐÊM


Bây giờ mùa mưa đến.
Gió rít lòng phố đêm.
Nghe lạnh đầy hư vắng.
Nghe như buồn dài thêm.

Bây giờ mùa mưa đến.
Sông nước đôi bờ đầy.
Thuyền xưa xa khuất mãi.
Lá ướt ngoài sông bay.

Bây giờ mùa mưa đến.
Mưa lạnh rêu hiên ngoài.
Tay với đời dài mãi.
Tóc theo ngày dần phai.

Bây giờ mùa mưa đến.
Phố vắng khuya cài then.
Thềm hoang hoa dại ngủ.
Mình tôi và ngọn đèn.

ĐOÀN THUẬN



LỬA ĐÊM


Nhóm đêm bếp củi cháy
khuất nhanh vào tối mây mù xa
trước lửa mưa nhạt nhòa.

Đỏ than chuyền hơi ấm
lùa lạnh hơi khuya vào bao la
nước thấm rêu hiên nhà.

Bọt bèo ôm chân sóng
khói tỏa lên trời mờ sắc hoa
người quên dấu chân qua.

ĐOÀN THUẬN




LỬA ĐÊM MƯA


Mưa chưa bao giờ thế
ngõ phố sâu thêm lầy
đêm hoang đầy bóng tối
tiếng sấm rền chân mây.

Mưa như ngàn xưa tới
nhung nhớ choàng lên vai
đi mãi trong rừng tuổi
phố xa ai tìm ai.

 

Mưa như mưa rừng xuống
từ một bờ cô đơn
lá cây bay đầy phố
lá ướt chạm vào hồn.

Từ cõi xa mờ mịt
gió lùa qua đêm đen
mưa tạt qua nhà vắng
mưa dột vào tịnh yên.

Tôi như từ xa lắc
về nhóm lửa đêm mưa
hong khô bờ ký ức
ấm nụ môi giao mùa.

 

ĐOÀN THUẬN

 

*



ĐÊM MƯA THU


1.
nhớ cánh rừng mưa rơi
con nai ngơ ngác ngoài hoang mạc
chập chùng đem gió cát.

2.
hàng cây bến sương mù
xác lá về đâu buổi tàn thu
mầm khát xuân lộc biếc.

3.
thoảng hương miền ký ức
lối cũ không người tự rơi hoa,
lặng lẽ mùa trôi qua.

 

ĐOÀN THUẬN




ĐÊM MƯA LẠNH

Mưa đêm lành lạnh phố phường.
Vi vu tiếng gió hú buồn nơi xa.
Hẻm con cao thấp tầng nhà.
Vô tình che khuất bao la bầu trời.

Ngờ như vật đổi sao dời.
Thị trường nhộn nhịp đã rời phố quen.
Mưa bay mờ nhạt ánh đèn.
Âm u bóng tối cài then dòng đời.

Dưới mưa bùn đất rã rời.
Dân nghèo phận bạc bời bời xót đau.
Mưa buồn tuông giọt lệ trào.
Khi mùa covid lan mau mọi miền.

Lâm râm mưa rụng ngoài hiên.
Khe rêu đá cũ tịnh yên bên thềm.
Cách ly, vắng lặng đường đêm.
Phố nhà phong tỏa buồn thêm cõi lòng.

Đoàn Thuận


 

*

 

ÂM MƯA ĐÊM

 

Mưa rào qua đêm phố
như một khúc nhạc trời,
thả từng giọt âm rơi
trên mái đàn phím ngói.

Điện tắt cung đường tối
đâu rõ mặt khuôn âm
của khoảng lặng lâm râm
tạt ướt bao hoa cỏ.

Sấm rền dần dần nhỏ
ngưng thầm bản nhạc mưa
còn chăng đôi âm thừa
chạm ngoài thềm rêu biếc.

Chạm lên nốt mi tuyệt,
nốt rê buồn lệ rơi,
trên sân khấu cuộc đời,
với trường canh dâu bể.

ĐOÀN THUẬN




TIẾNG MƯA RƠI

Âm thanh tí tách mưa rơi.
Chạm lên phiến đá, lên đời rêu hoang.
Thinh không thạch thảo địa đàng.
Lặng câm núi lạnh, lụi tàn rừng cây.

Chuyển mùa nắng quái mây bay.
Khốc khô suối cạn, lắt lay bụi đường.
Môi trường đất nước nhiễu nhương.
Lội lầy bến đỗ, dầm sương chợ đời.

Rừng xa núi thẳm biển khơi.
Đồng không mông quạnh chơi vơi bóng người.
Xuân thì đâu mãi xinh tươi.
Niềm đau buồn lệch môi cười, ướt mi.

Đường trần kẻ ở người đi.
Sum vầy một lúc, biệt ly muôn đời.
Âm thanh tiếng nước mưa rơi.
Nghe như giọt lệ bên trời tiễn đưa.

ĐOÀN THUẬN



TIẾNG RU ĐÊM


Câu hò tiếng nhạc ru đêm.
Hòa theo nhịp gõ bên thềm trăng non.

Đàn bầu khoan nhặt nỉ non.
Như buông giọt lệ mỏi mòn nhớ mong.
Khúc nôi lạc điệu thinh không.
Chìm vào khoảng lặng cõi lòng bi ai.

Ru hời hồn mộng u hoài.
Trầm buồn tựa tiếng thở dài đêm thâu.
Lời ru trôi nổi về đâu.
Mây bay gió cuốn bao câu tạ từ.

Đường trần xuôi ngược du cư.
Mơ xưa ước cũ trầm tư mịt mù.
Tình sầu sương phả vi vu..
Lời nguyền còn lại tiếng ru âm buồn.

ĐOÀN THUẬN

  


TIẾNG TIÊU XA

Dưới trăng huyền ảo Hồ Đông.
Con thuyền ba lá bềnh bồng rong chơi.

Tiếng tiêu văng vẳng xa vời.
Gió ru thanh điệu không lời lam thôn.
Âm buồn gõ cửa tâm hồn.
Như nhung nhớ buổi hoàng hôn xa người.

Hoa đời đâu mãi xinh tươi.
Niềm vui còn lại nụ cười héo hon.
Mưa rơi nước chảy đá mòn.
Nhưng tình nghĩa cũ sắt son một đời.

Bao mùa lưu lạc chơi vơi.
Tiếng tiêu buồn bã bời bời âm xưa.

ĐOÀN THUẬN

.


TIẾNG ĐÀN ĐÊM


Đêm trôi ngoài hiên vắng.
Giọt mưa thu vương vương.
Tay gầy trên phím cũ.
Mắt ai nhiều giọt sương.

Khúc nhạc chìm vào tối.
Âm vang buồn không lời.
Tôi ngồi nơi góc phố.
Nghe mưa nghìn trùng rơi.

ĐOÀN THUẬN


 

TIẾNG CÒI ĐÊM.


Giữa khuya hụ lớn hồi còi.
Xe rồ rượt đuổi qua đồi ầm vang.

Vô tình đánh thức dân làng.
Người vừa tỉnh ngủ, kẻ tàn giấc mơ.
Giật mình khóc thét con thơ.
Mẹ hiền thiu thỉu ru hờ đêm thâu.

Tiếng ga xe rú về đâu.
Theo luồng gió hú nơi bầu trời xa.
Ồn ào náo động đi qua.
Xóm nghèo đèn tắt, bờ hoa tối sầm.

Hàng cây lối nhỏ lặng câm.
Lá khô rơi rụng âm thầm bên nương.
Lờ mờ bóng đổ pha sương.
Còi nghe xa hút, bụi đường cuộn bay.

Âm buồn rền rĩ chân mây,
Như còn thao thức đêm đầy lo âu.

Đoàn Thuận





ĐÊM MƯA KHÔNG LỜI


Mưa ở đây, mưa phương nào
nghĩ như điệu hát chạm vào thiên thu
từ trong quãng lặng mịt mù.

Lá khô rụng để vàng thu
từng hạt mưa, từng hạt mù sương, bay
trong hoang vu chẳng tháng ngày.

Mưa bên song, mưa hiên ngoài
cũng là một giọt lệ dài đã rơi
từ bên kia của nụ cười.

Mi đêm khép giấc mộng người
nhịp mùa gõ lạnh một thời thôi nôi
vết lăn về cuối chân trời.

Mùa nghiêng mưa xuống hồ đời
tôi nghiêng hồn xuống chơi vơi nỗi niềm
núi ngàn năm đứng lặng im.

Lửa người ru giấc mưa đêm
không lời.

ĐOÀN THUẬN


*

 

ÁNH  LỬA

Bập bùng ánh lửa bên non.
Mái chiều khuất cuối dặm mòn quê xa.
Sau nương rơi giọt trăng tà.
Ngỡ như bóng mẹ ta nhòa trong sương.

Bếp than hồng ấm một phương.
Hương cau hương dã quì vương đầy hồn
Hoa nào nhớ ngát môi hôn.
Sóng ru tiếng biển nhớ cồn đảo xưa.


ĐOÀN THUẬN





HƯƠNG LỬA


1.
đưa cây rừng vào lửa
nung nấu tơ duyên  chín kiếp người
ngàn dâu đâu mãi tươi.

2.
hoa nở trong tàn phai
dưới hoa tiếng gõ vàng cát bụi
hương lửa đâu một đời.

La Gi,1989
ĐOÀN THUẬN






* XÓM TRỌ  *



tranh Alexi Zaitsev


 DÂN RUỘNG TRỌ HỌC..
_____________________________

CÁT SỸ     
 

   

     
Trong thập niên 60, kẻ mọn ở quê như tôi, được dân thành phố gọi đùa là “dân ruộng ”,
luôn gặp nhiều khó khăn cho việc đèn sách. Nơi ăn chốn ở là điều kiện cần thiết nhất để đi học.
Việc làm có thù lao, có thu nhập, ít nhiều sẽ đáp ứng nhu cầu đó. Ngoài ra, với tình làng
nghĩa xóm, với thiện tâm, mọi người chung sức giúp đỡ con cháu, người nghèo đi học,
học càng cao càng tốt.

        Ngày mới lên đại học, một U Già cho tôi ở trọ tại một gác cây nơi xóm Ruộng Cỏ gần Rạch Chiếc, và tôi nhận kèm một lớp tư gia, do bác sỹ Ann tổ chức trong khu biệt thự Palace. Nhờ vậy, tôi lấy được chứng chỉ Dự Bị Việt.                                     
       Chị Ann về Paris không bao lâu, tôi nhượng lại cho Huê lớp học tư gia, ở Palace. Huê, cô bạn nghèo ở Cái Bè, vừa lên Saigon tìm cách học đại học, quê mùa lơ ngơ như tôi ngày nào. Dù sao, tôi rất may mắn vì được nhiều người thương xót, còn Huê không quen biết ai ngoài một người thân của Ba tôi ở Lò Heo Mới. Đậu xong tú tài toàn phần, Huê tìm được việc làm khá tốt ở Cái Bè, nhưng ba má Huê muốn con gái mình học lên đại học, dù cực khổ đến đâu.                 
          Sau khi Huê ổn định mọi việc, tôi chuyển về gác trọ Bà Tám gần chợ Nancy, ở chung với Nhiệm Sơn Khổ, ba bạn thân thời học trường Châu Văn Tiếp. Về đây, tôi nhận dạy kèm nhóm nữ sinh học lớp đệ ngũ tại tư gia thuộc quán Kem Hà Nội, và một nữ sinh khác thuộc PharmacieTrang. Người trẻ tuổi lên Saigon đi học ngày càng nhiều, gác trọ Bà Tám ngày thêm đông. Tôi lại nhường chỗ trọ này và hai chỗ dạy nói trên cho hai bạn học cũ, Anh và Đại, cần việc làm để tự túc ăn học.           Từ giã Nancy, tôi đến trọ ở hẻm nhỏ đường Nguyễn Thông, nhận dạy lớp Tráng Niên trong Cư xá Hỏa Xa, do chị Hậu, một sinh viên luật giới thiệu. Tôi ăn cơm tháng tại một quán bình dân gần đó. Bà chủ quán rất hiền hậu, luôn chú ý giúp đỡ những người nghèo khổ. Bà cho hai hoc sinh trung học phụ việc bán thời gian, để kiếm tiền đóng học phí, học tư thục Nguyễn Bá Tòng.
         Trong thời gian ngắn, tôi dời hai nơi trọ, nhượng lại ba chỗ dạy kèm cho những bạn nghèo, dân ruộng, lên Saigon đi học. Đâu khác chi ngày mới lên Gia Định, tôi gần như bơ vơ, đâu quen biết ai. Bác Hân, Nương, chị Ann đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp tôi đi học và đã xong một năm đại học.                      
.            

          Người có điều kiện giúp người không điều kiện, người đi trước giúp người đi sau, “dân phố” giúp “dân ruộng”. Đó là điều hiển nhiên trong nền Giáo dục Cộng đồng, với nguyên lý “Nhân bản, Dân tộc, Khai phóng”.
                                             

           Rạch Chiếc, 1962.

    *
   

   NỖI QUÊ

Đầu đời, bỏ ruộng, đi theo sách.
Nhớ điếng lòng quê dáng Mẹ gầy.
Nhớ canh bồ ngót, cơm lúa mới.
Khói bếp, đêm hè, vương mắt cay.
.
Sài Gòn, 1962
CÁT SỸ.
[Đoàn Thuận]
 
 
 

VÀO SÀI GÒN TRỌ HỌC.

Tôi, từ biển mặn đồng ruộng xanh,
du tử xa quê lên tỉnh thành
dò dẫm tìm đường vào đại học,
nhiều năm ở trọ nơi Sài Thành.

Hòn Ngọc Viễn Đông, miền đất lành.
Phương Nam, đậu lại cánh chim xanh.
Văn minh Lúa Nước nền Âu Lạc.
Thoát ly phong kiến sau chiến tranh.

Dù đời nghèo khổ, phận mỏng manh,
nguyên lý giáo dục vẫn vận hành,
”Nhân bản Dân tộc và Khai phóng”,
mở tầm hiểu biết dưới trời xanh.

Ở nhờ ăn đậu, sống âm thầm,
tự thân rèn luyện xa mê lầm,
kèm trẻ tư gia, dạy tư thục.
nương tựa vào người có thiện tâm.

Dân quê dân phố nghèo hay giàu,
tình làng nghĩa xóm bảo ban nhau,
giúp trẻ học hành đến thành đạt,
xây đời an lạc cho mai sau.


Sài Gòn,1963
CÁT SỸ


MÙA TRỌ HỌC

Bao mùa trọ học đất Sài Gòn
giúp tôi dần xa tầm trẻ con,
với phận quê mùa sống khép nép,
lủi thủi nương thân giữa mất còn.

Ngày đầu lưu lạc nơi phồn hoa,
trọ lại thôn nghèo ngoại ô xa,
đường đi nước bước còn lạ lẫm,
bạn với sương khuya với chiều tà.

Người có thiện tâm như xót xa,
thương kẻ bơ vơ không cửa nhà,
sẻ chia cơ hội vào đại học.
nhường phần kèm trẻ tại tư gia.

Giấc mơ Kiến Trúc rồi phai nhòa,
đành chọn văn chương với Văn Khoa,
theo Ban Việt Hán vào Sư Phạm,
một mai nối gót ông đồ già.

Thập niên 60 hồn nhiên trôi,
Sư Phạm tiễn tôi về xa xôi,
Trung học Hà Tiên, nhiệm sở mới,
từ giã Văn Khoa lòng bồi hồi.

Đất trọ Sài Gòn như quê hương.
Một tôi du tử lại tha phương.
Kỷ niệm buồn vui trong lưu bút.
Hành trang mang theo chỉ gió sương.

Sài Gòn, 1969
CÁT SỸ

 

 

ĐƯỜNG QUA  ĐẤT TRỌ.

Sương mù nhòa bóng hàng cây.
Đường qua đất trọ ngập đầy cỏ hoa.
Bên bờ rạch nước bến phà.
Vài chòm lau sậy la đà hắt hiu.

Gió đưa xa tiếng sáo diều.
Còn đây xóm nhỏ quạnh hiu ngoại thành
Vườn cây luống cải rau xanh.
Đồi nương ruộng cỏ nằm quanh ruộng mùa.

Cuối đường gần khóm hoa mua,
gác cây rung lắc mái khua âm buồn.
Ngờ như gió thổi bụi tuôn.
Ru nhành xoan tím rơi buông hoa tàn
Bao ngày vườn cũ bỏ hoang.
Nay mong giúp sức tôi an sách đèn.

Nơi này đâu biết ai quen.
Đi về bạn với hoa sen dã quì.
Đời người sum hợp phân ly.
Buồn vui tôi chỉ thầm thì với tôi.


Rạch Chiếc,1962
CÁT SỸ
[ĐoànThuận]
 
.

TÌM ĐẤT TRỌ

Nương theo từng nhịp thời gian.
Lần tìm đất trọ dưới làn khói sương.
Ngược xuôi qua mấy dặm đường.
Bờ mê bến lú đoạn trường bể dâu.

Lá thuyền neo bến giang đầu.
Sông Ngân, Ô Thước bắt cầu sang ngang.
Hương trời vương áng mây Hàng.
Uyên ương xây tổ mộng vàng tơ duyên.

Giã từ tiên nữ đào nguyên.
Bồi hồi Lưu Nguyễn về miền đất xưa.
Đường trần cát bụi nắng mưa.
Tràng giang bến đổ bao mùa vần xoay.

Chim rừng vỗ cánh hương bay.
Người đời một thoáng tóc mây bạc đầu.
Ta nơi cõi tạm dãi dầu.
Mong tâm an tịnh dưới bầu trời quê...

Rạch Chiếc.1962
CÁT SỸ


MIỀN ĐẤT TRỌ


Lăng Ông Bà Chiểu Cần Giờ.
Gò Công Cần Đước Cần Thơ Cái Dồn.

Chương Dương Ông Tạ Vân Đồn
Dĩ An Ông Tố Hóc Môn Bà Nghèo.
Ông Đồn Gò Vắp Rạch Keo.
Hang Trong Cầu Đúc, Cầu Treo Hang Ngoài

Chợ Lớn Chợ Nhỏ Cây Mai.
Bến Đình Chợ Quán Đồng Soài Hòn Rơm.
Rạch Gầm Bà Quẹo Hồ Tôm.
Bà Đen Cần Giuộc Bà Hôm Phò Trì.

Sông Hàn Núi Bể Cà Ty.
Núi Ông Tà Cú, Cù Mi Hòn Bà.
Hậu Giang Bến Lội Hoàng Sa.
Bình An Thủ Đức, Bà Nà Hạnh Thông.

Bình Châu Phú Quốc Sơn Đông.
An Nhơn, Bà Rịa Hạ Long Thái Bình.
Nam Hà Bắc Cạn Tây Ninh.
Bình An Bình Phước, Đức Linh Đức Hòa.

Phước Tuy Bình Thuận La Ngà.
Lâm Đồng Đất Đỏ Trường Sa Phong Điền.
Đông Hồ Vĩnh Tế Hà Tiên.
Đèo Ngang Động Chú Thừa Thiên Dinh Thầy

Suối Nhum Mũi Né Mõ Cày.
Cái Bè Cai Lậy, Cái Mây Định Tường.
Bến Tre Rạch Giá Kiên Lương.
Côn Sơn Đồng Tháp Đơn Dương Vũng Tàu.

Kê Gà Đà Lạt Cà Mau.
Suối Muồng Núi Nhọn Mây Tào Tà Mon.
Hố Nai Hòn Trẹm Láng Gòn.
Đa Nhiêm Mũi Điện Ba Son Hồng Bàng.

Rạch Hào Láng Đá Sông Phan.
Thất Khê Đồng Đế,Phan Rang Trãng Bàng.
Gia Lai Xuân Lộc Hội An.
La Ngâu La Dạ La Gàn La Gi.

Nha Trang Ninh Thuận Bình Tuy.
Nhà Bè Cửa Cạn, Củ Chi Bưng Tràm.
Sông Hương Bến Nghé Sông Lam.
Sông Hồng Tháp Bút, Tháp Chàm Núi Dinh.

Bến Thành Bến Ngự Ba Đình.
Hồ Gươm Hà Nội Mê Linh Sài Gòn.

Gia Định, 1969
CÁT SỸ






QUÁN TRỌ

Bãi bờ yên trước bóng khuya
Tiếng lau sậy chạm cõi kia quán đời.
Dưới hoa lặng lẽ ta ngồi
Bóng trời đêm chạm vào môi cười thầm.

Người xa như thể trăm năm
Ngoài kia núi cũ đã nằm ngủ lâu.
Ai buồn tay chống mái đầu
Trước rừng trăng muộn phai màu sau cây.

Cuối trời mây thản nhiên bay
Quán trần ta trọ chờ ngày mai đi.

Bình Triệu,1964
CÁT SỸ



*



NƠI  Ở TRỌ

Đường cát bụi ngờ như còn hoang sơ
đưa tôi tìm nơi trọ miền ngoại ô
bờ Rạch Chiếc, bên này xóm Ruộng Cỏ
xa phố phường sang trọng giữa thành đô.

Một gác gỗ dưới nhành cây la đà,
tại góc vườn bỏ hoang đầy cỏ hoa,
bên thềm gạch rêu phong mái ngói cũ,
nơi trú chân bao người không cửa nhà.

Sinh viên nghèo xa quê sống bơ vơ,
ngày đi học, đêm dạy kèm trẻ thơ.
Gác yên tĩnh, tôi mong tâm an tịnh,
bớt u hoài, bớt mê muội mộng mơ.

Nhành xoan tím đong đưa trong chiều tà,
làm nhớ lắm đồi sim tím quê nhà,
lan đất tím, hoa mua, bằng lăng tím.
Như tím buồn biệt ly khi chia xa.

Rạch Chiếc,1962
CÁT SỸ



XÓM TRỌ

Bên bờ Rạch Chiếc mưa chiều bay.
Nước tràn ruộng cỏ, đẫm vườn cây.
Ướt sũng lối mòn về Xóm Trọ,
Mương ao bỏ dại ngập sình lầy.

Mưa tạt vào nhà tôn vách cây,
Cạnh gò hoa dại, khóm sậy gầy,
Nơi người nghèo khó đến trú ngụ,
Mồ côi lưu lạc trọ qua ngày.

Gác ván ẩn mình dưới nhành xoan.
Nước rụng trên mái như nhịp đàn
Hòa âm òn ên cùng ếch nhái,
Dế rích nỉ non nơi vườn hoang.

Sách vở lặng thinh khi mưa rơi.
Bút nghiên con chữ im không lời
Giọt mưa rơi dài ngoài thềm gạch
Như dấu chấm than thả xuống đời.

Rạch Chiếc, 1962
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 

XÓM TRỌ NGHÈO

Xóm Trọ thường nghe hàng rong rao.
”Ai khoai đậu…bắp”. “Ai su…hào”.
Âm thanh nhỏ nhẹ tựa lời Mẹ
ru con thơ dại một thuở nào.

Người bán hàng rong như Mẹ già,
mong con ăn học theo tinh hoa,
thành người tài đức, có kiến thức,
giúp ích cho đời, cho quốc gia.

Bao gánh hàng rong rao đêm ngày.
Kiếm thêm thu nhập, thoát nợ vay.
Hàng bán giá rẻ, biếu gia vị,
Giúp người lỡ độ sống đủ đầy.

Người già bưng xách, trẻ gánh gồng.
Đôi khi long đong, chưa thong dong.
Nhưng luôn tương trợ cùng vui sống.
Tình làng nghĩa xóm thêm mặn nồng.

Nghe rao, tôi mơ điệu lam thôn.
Du dương dịu lắng trong tâm hồn.
Nỗi niềm phiêu bạt ngày xa xứ.
Gác trọ sách đèn bao hoàng hôn.

Rạch Chiếc, 1962
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]




XÓM TRỌ MƯA


Lâm râm mưa rơi nơi vườn chiều.
Xóm trọ lành lạnh trong quạnh hiu.
Hàng sao cổ thụ nghiêng theo gió.
Lối vắng người qua, cỏ liêu xiêu.

Hoa sao quay quay theo mưa bay.
Nụ tròn buông thân bên ao lầy.
Hai cánh vấn vương chồi lá biếc.
Rời rã nằm trong đám cỏ may.

Từ xa mưa lan qua đường mòn.
mang theo cát bụi lẫn bùn non
róc rách nương nhờ mương nước nhỏ,
như hẹn về xuôi sông Sài Gòn.

Sau mưa thôn yên trời trong lành.
Nương rau luống cải thêm tươi xanh.
Ao sen bùn lắng xuống đáy nước.
Hương thoảng dịu thơm dù mong manh.

Rạch Chiếc,1962
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 
 
 

ĐÊM XÓM TRỌ

Xóm Trọ thường nghe hàng rong rao,
”Ai khoai đậu…bắp”. “Ai su…hào”.
Âm thanh nhỏ nhẹ tựa lời Mẹ
ru con thơ dại một thuở nào.

Người bán hàng rong như Mẹ già,
mong con ăn học theo tinh hoa,
thành người tài đức, có kiến thức,
giúp ích cho đời, cho quốc gia.

Bao gánh hàng rong rao đêm ngày
kiếm thêm thu nhập, thoát nợ vay
hàng bán giá rẻ, biếu gia vị,
giúp người lỡ độ sống đủ đầy.

Người già bưng xách, trẻ gánh gồng
đôi khi long đong, chưa thong dong,
nhưng luôn tương trợ cùng vui sống,
tình làng nghĩa xóm thêm mặn nồng.

Nghe rao, tôi mơ điệu lam thôn,
du dương dịu lắng trong tâm hồn
nỗi niềm phiêu bạt ngày xa xứ,
gác trọ sách đèn bao hoàng hôn.

Rạch Chiếc, 1962
CÁT SỸ





*




HẺM  TRỌ


Hẻm Nancy nhạt nhòa ánh điện đêm,
trong bóng mưa nặng hạt xuống mặt thềm,
vang theo mưa, tiếng đàn cò Chín Trích,
nghe nỉ non từng giọt âm dịu êm.

Ngoài trời mưa, chuông xe khua leng keng
Nơi gác trọ, bút nghiên với sách đèn.
Nghiên đọng lại nước hương tóc mây cũ.
Bút ghi tròn nốt “mi” giọt lệ quen.

Mưa tạt vào trang lưu bút ngày xanh.
Màu mực phai, dòng chữ lem vòng quanh.
Nhưng kỷ niệm còn in trong ký ức.
Nước mắt buồn rơi rơi nguyên âm thanh.

Dù tạnh mưa, tịnh yên dưới mái lầu,
vẫn còn lan miên man giọt đàn bầu.
Hàng rong rao êm tai khắp phố cũ.
Đàn guitar, tiếng hát ru đêm thâu.

Nancy,1963
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]



HẺM PHỐ CHIỀU

Hương chiều, theo giọt mưa mau, qua hoàng hôn
mùi ẩm mốc lan dần từ nền sân nứt cũ gạch bông
từ mảng xanh me đất bám hờ chân tường lổ chổ,
thoang thoảng dịu êm không gian sứ trắng hoa hồng

Màu chiều vương mắc trên viền cửa nhìn ra phố nhỏ
bóng đen dưới mái hiên lấp kín ô thông gió nhà bên
đêm bò nhanh vào hẻm cụt chưa kịp lên điện
đốm sáng cuối ngày lịm tắt sau mái tôn nghiêng

Âm thanh chiều, không đủ nghe ồn ã, ngoài xa lộ
nhức nhối, trên ti-vi, ai gào khát đêm yêu đương
hàng rong rao phai ánh đèn mờ, cà-phê nhạc sống
nốt lặng trầm, điệu ca xưa, vào tưởng niệm cố hương.

Lòng chiều sâu thẳm trong thờ thẫn nhớ quên
mơ màng hương tóc cũ, màu mắt xưa, lời ai buồn tênh
một khung trời chân dung, một lần tạm biệt, một đời xa vắng
chiều vẫn trôi mải miết vào thời gian vô cùng cô đơn

Bóng lảo đảo khuất vào căn nhà tối
cửa lặng im khép kín lời ca khuya
để dòng nhạc chạm hờ bờ tường cũ
dội về đâu tan loãng âm mùa xưa.

Đôi mèo hoang gọi nhau khàn mái phố
tiếng gào khua nhức buốt khoảng đêm đen
ai thức giấc giữa mơ hồ mộng mị
lời bâng quơ than thở đêm muộn phiền.

Điệu blues dìu đêm dài trôi mãi
một âm rời rụng xuống nỗi cô đơn
ta chợt tưởng chân dung em ngồi khóc
giọt sương thu đọng lại trong hồn buồn.

 CÁT SỸ

 

 

CON HẼM TỐI.

Hẽm sâu điện tắt ánh đèn.
Đi về xóm nhỏ lối quen thuộc buồn.
Trong nhà nến thắp đêm suông.
Hồn nhiên bóng tối lạnh buông hiên ngoài.

Đầu hôm, trẻ thức học bài.
Đường khuya quán vắng giọng ai thì thầm.
Vẳng xa giữa cõi lặng câm.
Lời kinh tiếng mỏ hương trầm âm u.

Gió ru bụi đất tù mù.
Thềm rêu sân gạch lá thu rụng đầy.
Sao mai nhấp nháy mây bay.
Đêm tàn gà gáy chờ ngày sáng lên.

Cột đèn, điện vẫn ngủ quên.
Vẫn mù mờ trước bồng bềnh sương tan.
Hẽm con thức giấc muộn màng.
Vài nhà mở cửa nghe hàng rong rao.

Đoàn Thuận

 

ÂM THANH
HẺM PHỐ
ĐÊM

Đêm cúp điện đâu rõ mặt con hẻm
những mái nhà ngái ngủ thấp cao
tiếng nhạc nhẹ len qua khuôn màn hẹp
nghe dịu êm một khoảng lặng không màu.

Gã say rượu vẹo xiêu bóng đổ
lè nhè ca lạc điệu khúc tàn thu
chân gõ nhịp nền xi-măng loang lổ
dưới mảng trời rách nát ánh sao lu.

Bóng lảo đảo khuất vào căn nhà tối
cửa lặng im khép kín lời ca khuya
để dòng nhạc chạm hờ bờ tường cũ
dội về đâu tan loãng âm mùa xưa.

Đôi mèo hoang gọi nhau khàn mái phố
tiếng gào khua nhức buốt khoảng đêm đen
ai thức giấc giữa mơ hồ mộng mị
lời bâng quơ than thở đêm muộn phiền.

Điệu blues dìu đêm dài trôi mãi
một âm rời rụng xuống nỗi cô đơn
ta chợt tưởng chân dung em ngồi khóc
giọt sương thu đọng lại trong hồn buồn
.

 CÁT SỸ




*



XÓM HỌC.CŨ                                                                                         
Ai về nơi chân mây
bỏ quên miền thơ ngây
vô tư bên đèn sách
những mùa hoa xoan bay.


Đường thơm bao kỷ niệm.
Lưu bút ghi hẹn chờ.
Giờ nơi ngàn dặm khuất
thư cũ mực phai mờ.


Lối hoa đầy khói sương,
phía hồ thu liễu dương,
còn đây bao đêm thức
người nhớ người một phương.

CÁT SỸ


 

NƠI TRỌ HỌC

Gác cây dưới tán hoa xoan,
nơi tôi trọ học ngổn ngang sách đèn.
Vì đời trôi nổi bao phen
thân như bèo dạt ao sen đầm lầy.

Chốn này hoa thoảng hương bay
từ bờ cúc dại, từ cây xoan già.
Cõi kia phố thị phồn hoa,
nhà hàng cửa hiệu quán ba vũ trường.

Hạ sang phượng thắm pha sương.
Em xưa từ giã sân trường lệ rơi.
Người đi kẻ ở bồi hồi.
Tuổi thơ hoa mộng một thời sang trang.

Tôi nơi gác cũ vườn hoang,
Bạn cùng cây cỏ cùng trang sử vàng,
Lời xưa nghĩa cũ mênh mang.
Âm thầm suy niệm giữ an tâm mình.

Rạch Chiếc, 1962
CÁT SỸ

 

BẠN HỌC NƠI ĐẤT TRỌ.                                                                            

Bạn thân nơi đất trọ.
Quen nhau ngày thơ ngây.
Học hành bên cô thầy.
Tôi ghi lời ước nguyện.

Đôi vần thơ xao xuyến
Trao nhau lúc chia tay.
Chúc an nhiên, nào hay
gặp biết bao buồn tủi.

Từ đường đời rong ruổi,
gửi lại dòng thơ đau,
cùng cánh hoa úa màu
ép vào trang lưu bút.

Tôi mong giấy không mụt
Khi hoài niệm lời buồn.
Dù lòng như bỏ buông.
Dù thơ chẳng ai đọc.

Dù rối bời mái tóc
Trước sương gió nắng mưa.
Vẫn giữ ước nguyện xưa:
Đi “theo đường nghiên bút”.

CÁT SỸ


HOA NƠI TRỌ HỌC.

Nơi gác trọ sách đèn,
tôi cùng hoa làm quen,
thầm buồn nhìn xoan tím,
thoáng vui với hương sen.

Cúc dại không theo mùa,
chẳng nhuốm màu hoa mua,
luôn với tôi tươi thắm,
đâu mắc cở thẹn thùa.

Lan đất bên bờ đường
tiễn chân tôi qua trường
dù đông sầu lạnh giá,
hay thu muộn pha sương.

Dạ lý hương dã quì
cùng tôi thức ôn thi
nhụy cong những dấu hỏi
về bài toán xuân thì.

Giữa mùa hoa lưu ly,
tôi giã từ kinh kỳ,
nhớ cánh xoan tim tím,
dáng sen hồng nhu mì.

CÁT SỸ





*



PHỐ NGHÈO

TÔI.

Ngày nao phố cũ hè xưa.
Đi về lá úa lưa thưa rụng buồn.

Đường ray dẫn đến ga truông.
Dăm ba cột điện pha buông đèn vàng.
Phố nghèo hẻm nhỏ dọc ngang.
Mái tôn mái ngói, ẩn tàng rêu phong.

Quán cơm, phòng trọ, hàng rong.
Học trò ở đậu, lao công ăn nhờ.
Dân đen lỡ độ thất cơ.
Nương nhau sống tạm bên bờ đục trong.

Phế nhân, quả phụ, lão ông.
Mồ côi trẻ dại, người không cửa nhà.
Di cư tứ xứ gần xa.
Dù nghèo lòng vẫn chan hòa nghĩa nhân.

Đôi khi chung một vuông sân.
Dưới trăng ngẫm nghĩ lời dân dã buồn.
Cung đàn nhịp điệu lam thôn.
Hát ru ước vọng tâm hồn an nhiên.

Bình Triệu, một chiều thu.
CÁT SỸ




XÓM CŨ

TÔI.


Mưa ngâu phơ phất xóm nghèo.
Với bông vắp trắng gió heo may lùa.
Trong chiều tím ngát hoa mua.
Lập thu tháng bảy đón mùa Vu Lan.

Bàn thiên bên cội điệp vàng,
Am mây lư đất khói nhang hương trầm.
Chùa xa tiếng mõ lặng câm.
Vẫn như tụng niệm thì thầm kinh đêm.

Ước mong quê Mẹ êm đềm
Dù đời sương gió đã mềm nắng mưa
Mặn nồng tình cũ nghĩa xưa.
Bà con nương tựa bao mùa bên nhau.

Khai hoang ruộng lúa nương rau.
Gò cây hoa Vắp, rạch hào đầm sen.
Chung tay nuôi trẻ sách đèn.
Cho dù bão tố bao phen dập vùi.

Người đi kẻ ở ngậm ngùi.
Xa quê lòng vẫn không nguôi lời nguyền.
Đất trời có lúc đảo điên.
Quyết chung thủy với tổ tiên Lạc Hồng

Gò Vắp, 1968
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]




XÓM  TRỌ

TÔI.

Tôi nơi  Xóm Trọ mấy mùa.
Đi về lá úa lưa thưa rụng buồn.

Đường ray dẫn đến ga truông.
Dăm ba cột điện pha buông đèn vàng.
Xóm nghèo hẻm nhỏ dọc ngang.
Mái tôn mái ngói, ẩn tàng rêu phong.

Quán cơm, phòng trọ, hàng rong.
Học trò ở đậu, lao công ăn nhờ.
Dân đen lỡ độ thất cơ.
Nương nhau sống tạm bên bờ đục trong.

Phế nhân, quả phụ, lão ông.
Mồ côi trẻ dại, người không cửa nhà.
Di cư tứ xứ gần xa.
Dù nghèo nhưng vẫn chan hòa nghĩa nhân.

Đôi khi chung một vuông sân.
Dưới trăng ngẫm nghĩ lời dân dã buồn.
Cung đàn nhịp điệu lam thôn.
Hát ru ước vọng tâm hồn an nhiên.


Bình Triệu, 1969

CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]





ĐẤT TRỌ

TÔI


Cõi đời quen lạ gần xa,
Đôi khi lỡ độ giữa ta và người.

Yêu thương, xuân thắm hoa tươi,
Hận thù, chối bỏ nụ cười lệch môi.
Mơ xưa ước cũ một thời,
Vai kề bước mỏi, nay đôi đường về.

Một người phiêu bạt xa quê,
Cô đơn làm bạn bộn bề buồn vui.
Nắng mưa cát bụi dập vùi,
Giữa đông phố xá ngược xuôi thị trường.

Một người nơi đất đế vương
Lầu cao biệt thự cung đường nguy nga.
Mê say nhung lụa phồn hoa,
Quên ngày chia cách lệ nhoà tiễn đưa.

Tôi về đất trọ qua mùa.
Tàn tro hương lửa thẹn thùa hôm mai.
Miên man hoa nở hoa phai
Thu sang lá rụng, đông cài giá băng.

Tiếc thương chi cũng muộn mằn
Mất còn, một lẽ thường hằng, như nhiên
.

Thảo Điền, 2014
ĐOÀN THUẬN


HẺM PHỐ

TÔI

Con hẻm không đèn điện
quờ quạng tìm sao trời
gối đầu lên bóng tối
thao thức chờ một tôi .

Có ai buồn hát nhỏ
những hạt bụi vàng khô
rụng xuống bàn tay đói
chạm vào hồn ngây ngô.

Dăm ba con chó lạ
sục sạo dưới chân cầu
tru khan bờ sông vắng
hẻm phố buồn thêm sâu.

Ngọn đèn dầu trang sách
đâu soi thấu lòng đêm
đâu thấy dòng thư cũ
và mối sầu của em

Nancy,1965
CÁT SỸ
 
 

*


VỀ LẠI
XÓM CŨ

Về đây trong lũng mây chiều.
Mưa rơi thôn lẻ ít nhiều bâng khuâng.
Suối trôi trong dáng ngại ngần.
Người đi đề nhớ đôi lần trong mơ.

Bãi hoang với cát lưng bờ.
Dấu chân chim đã mịt mờ lối xưa.
Một đời ta những nắng mưa.
Lời ca dao cũ đong đưa phố sầu.

Ta về ngã nón qua cầu.
Nhớ trang thư cũ những câu tạ từ.
Có gì đâu một mùa thu.
Ngày thơ ấu đó cũng mù xa thôi.

Giờ ta xóm cũ bồi hồi.
Nghe hoàng hôn rụng cuối trời buồn tênh.

Xóm Ruộng Cỏ, 1968
CÁT SỸ









* GÁC TRỌ thời SÁCH ĐÈN *



tranh của Alexi Zaitsev
GÁC CÂY 
nơi
RUỘNG CỎ. 
________________________
CÁT SỸ


                            
                                                    
        
 Xa quê đi học, “ở trọ”, “ở nhờ” nơi xứ người, tôi sống ngu ngơ  thầm lặng khép kín,
nhưng may mắn được nhiều người thương xót giúp đở, thân thiện dạy bảo đôi điều cần thiết
để vượt qua gian khó...
         Khi gia đình chú Hoan về Pháp, tôi ở tạm trong nhà chị Ann, vì đang kèm trẻ tư gia gần đó.
Thấy tôi có ý định tìm thuê phòng trọ gần Đại học Văn khoa, chị Ann khuyên tôi nên ở lại khu
Palace, để chị tiếp tục chăm sóc sức khỏe cho tôi. Chị đi tìm nhiều nơi, cuối cùng, chọn gác trọ cũ
ở xóm Ruộng Cỏ, gần Rạch Chiếc. Chị xin phép U Già tu sửa lại căn gác gỗ cho tiện nghi hơn.
Tôi chỉ mong giữ lại hình bóng xưa, dù ít nhiều cũ kỹ. 

        Một mình tôi nơi gác cũ, hoa xoan thản nhiên đong đưa, hương phong lan thoang thoảng trong chiều tàn. Đâu còn bơ vơ, tôi sống cạnh bao người, dù chỉ là hình bóng. Đâu còn tâm an, lòng tôi phiền muộn không nguôi, dù gác vắng, tịnh yên.           
       Tại không gian yên tịnh này, tôi từng lưu vào tâm thức cảm giác mềm mại của một bàn tay đã dẫn tôi bước lên từng bậc thềm đại học Kiến Trúc.  .           
       Tại phong cảnh thơ mộng này, tôi để thấm vào ngực áo mình, giọt nuớc mắt hạnh ngộ của Bé Lai, người em gái kết nghĩa, sau nhiều năm xa cách..
      
Tại gác hoa xoan này, Nương và tôi ước hẹn dìu nhau qua mọi đoạn đường, dù cát bụi mù trời. Lời thủ thỉ hôm nao như sương đêm rơi xuống bờ hoa. Giấc mơ như ẩn tàng vào màu tím hoa xoan.

         Mọi đoạn đường đâu có nghĩa là trọn đường đời, nhưng sao tôi vẫn nghĩ mãi về đoạn đường từ gác hoa xoan, nơi xóm Ruộng Cỏ, đến căn nhà thuê mái ngói rêu phong, cuối hẻm nhỏ phố Đakao.
         Dường như, định mệnh xui tôi gặp Nương tại thềm đại học Kiến trúc, ngay ngày đầu tôi lơ ngơ đến ghi danh nhập học. Lại thấy tôi lưu lạc bơ vơ, Nương đưa tôi đến khu vườn rau cải, thuê gác gỗ dưới tán hoa xoan, làm nơi trọ học. Tại đây, hai chúng tôi ước hẹn sẽ “bên nhau đi học đến cùng”.                  .           
            Tiếp theo, khi tôi lâm trọng bệnh, nằm viện nhiều ngày, bỏ lỡ kỳ thi ở đại học Kiến Trúc, Nương giúp tôi chuyển sang học Đai học Văn khoa, rồi chuyển chỗ trọ đến căn nhà ngói cũ, khuất trong hẻm sâu, rất thuận lợi để tôi dưỡng bệnh và tâp trung ôn tập thi. Cuối năm, Nương lên năm thứ ba Đại học Kiến trúc, tôi đỗ Dự Bị Việt ở Đại học Văn khoa.                         
          Tại gác hoa xoan, đêm tịnh vắng giúp tôi nhận ra chính mình. Nương là người dìu tôi qua đoạn đường khó khăn, suốt năm học đầu tiên, khi lên đại học. Không có Nương, nếu không chết vì bệnh, thì tôi cũng chết tại chiến trường vì phải đi quân dịch. Tôi chỉ dựa vào tâm hồn cao quí của Nương, không giúp Nương được gì, không dìu được Nương qua khỏi nỗi đau từ mối tình đầu.

          Hoa xoan tím hay nỗi buồn tím thấm vào hồn tôi. 
           
         Rạch Chiếc,1964
        CÁT SỸ
          

GÁC TRỌ.                          

Hẻm sâu xóm nhỏ miền quê.
U già bạc tóc, bốn bề lặng yên.
Gác cây, một góc muộn phiền.
Mái tôn gió nhịp, bóng nghiêng ngoài chiều.

Cây xoan già tự cô liêu.
Tím buồn rụng xuống bao nhiêu khung đời.
Bút nghiên đèn sách hoa rơi.
Tôi cùng ngày tháng bên trời tha phương.

Trường xa khuất mấy cung đường.
Cũng xa hút bóng phố phường phồn hoa.
Đi về lối cỏ sương pha.
Dã quì sen ngó hương trà đón đưa.

CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]


GÁC HOA XOAN.

Chiều buông hoa xoan rơi hiên ngoài.
Hương vương bên thềm như mong ai.
Gác trọ bụi vàng trang lưu bút
Lời em từ biệt thêm u hoài.

Ngoài xa trên cao mây lang thang.
Đôi cành xoan khô lơ thơ tàn.
Còn đôi sợi nắng sau khung cửa.
Nỗi nhớ về nhau thêm mênh mang.

Hoa xoan bao mùa rơi lê thê.
Vườn xưa hoang sơ đường đi về.
Không em côi cút đời hiu quạnh.
Tâm tình thơ dại tựa giấc mê.

Sum vầy ly tan điều vô thường.
Như hoa khi tàn khi thơm hương.
Nhưng sao chuyện cũ đâu quên lãng
Vẫn mãi u buồn mãi nhớ thương.

Rạch Chiếc,1963
CÁT SỸ



CHIỀU  GÁC TRỌ


Từ biệt trường xưa và dòng sông.
Một chiều gác trọ buồn mênh mông.
Áo xanh gói lại mùa học cũ.
Người đến người đi cũng như không.

Ánh lửa song thưa mưa âm thầm.
Ngây ngô ước vọng về xa xăm.
Như hoa xoan tím bên hàng xóm.
Lời chiều rụng xuống bờ trăm năm.

Bài toán nhất phương bao đêm thâu
còn nguyên ẩn số thuở ban đầu.
Những pho sách cổ thơm hương giấy
đâu biết buồn vui ở mai sau.

Sớm muộn gì rồi cũng chia phôi.
Ta đi mang theo một nụ cười,
Một hoa phượng ép trang lưu bút,
Niềm xót xa nhau trước phận người

Rạch Chiếc,1962
CÁT SỸ


GÁC TRỌ CŨ.

Gác trọ mùa hạ sang.
Sách vở đầy bụi vàng
Nằm im bên nghiên bút.
Nhìn ra nhành cây xoan.

Ngày nao trên gác cây.
Bao lần hoa xoan bay.
Uớc nguyền yêu thương mãi.
Dù cay đắng đọa đày.

Lưu bút ngày em đi,
mực tím màu chia ly
ghi lại bao kỷ niệm
bên nhau buổi xuân thì.

Đường mòn còn mình tôi.
Mắt mờ nhớ lệ rơi.
Chỉ thấy hoa tàn rụng.
Hương lặng tĩnh bồi hồi.

Vườn hoang vắng người về,
Liễu biếc rũ lê thê.
Bên ao sen chiều muộn.
Lòng buồn thêm tái tê.

Rạch Chiếc,1966
CÁT SỸ


ĐÂU GÁC TRỌ XƯA.

Hoa xoan tàn rơi đầy sân hoang.
Niềm vui xa, còn đây bàng hoàng
Gác trọ cũ, sàn cây nghiêng đổ.
Nền gạch tan, cỏ dại rêu lan.

Bao ngày qua theo mùa thu vàng.
Ta ra đi bơ vơ lang thang.
Dưới cát bụi tìm nơi ở tạm.
Nay về thăm, bút ký sang trang.

Đường thay tên ngang qua nhà em.
Ai môi son ung dung sau rèm.
Người lạ lẫm, U Già khuất bóng.
Em về đâu, đời vắng xa thêm

Đâu gác xưa, đâu ngày êm đềm.
Hoàng hôn buông phong lan trăng đêm.
Thời hoa mộng sách đèn Xóm Học.
Như khuất vào nỗi nhớ dịu êm.

Rạch Chiếc,1964
CÁT SỸ



THĂM GÁCTRỌ XƯA

Thăm lại vườn xưa khu Thảo Điền
Gác cây nền đá chiều tịnh yên..
Huệ đỏ đôi hàng viền lối sỏi
Một miền ký ức thuở hoa niên.

Sân gạch thềm hoa xanh.rêu phong
Thiên lý tàn khô hương phiêu bồng.
Cội mai lặng lẽ bên khóm trúc.
Bàn thiên nhang khói hồn tĩnh không.

Mái tôn vách ván nơi góc vườn.
Từ biệt ra đi bao mùa sương.
Nhà cũ lạ người, em xa vắng.
Bên hoa còn lại nỗi đau buồn..

Tưởng ngày lưu lạc sẽ qua đi.
Đất trọ phố nghèo nơi kinh kỳ
Ta về nhóm lửa đêm hoa mộng.
Ngờ đâu thăm thẳm đường biệt ly.


Thảo Điền, 1908
Đoàn Thuận



VỀ THĂM GÁC TRỌ XƯA

Chiều lành lạnh một màn mưa qua phố.
Tôi về thăm gác trọ sau bao năm.
Đường thời gian ai gõ bước âm thầm.
Tình sách vở khiến lòng tôi ái ngại.

Xóm trọ cũ của một thời xa ngái.
Bóng thư sinh bao lớp đến rồi đi.
Hoa phượng rơi như rộn rã kinh kỳ.
Bình thản trước bao mảnh đời luân lạc

Con hẻm nhỏ hắt hiu lời ai hát.
Nghe mơ hồ một nỗi nhớ không tên.
Lối đi về xa lạ chẳng ai quen.
Những trang sách ép khô hoa lặng lẽ.

Gác trọ xưa đâu rồi ngày nhỏ bé.
Những dại khờ những ước vọng vu vơ.
Chỉ còn đây xác giấy dưới bụi mờ.
Những người bạn về phương nào xa vắng.

Tôi lầm lủi trên đường dài mưa nắng.
Nợ áo cơm quay quắt đã mấy mùa.
Nay trở về xóm học đã xa xưa.
Đã cổ tích hơn một đời Lưu Nguyễn.

Nancy, 2010
ĐOÀN THUẬN




THĂM GÁC TRỌ NANCY
[Thân tặng Ngọc Sơn và Hữu Khổ]

Lưu lạc, nay về gác trọ xưa.
Nancy hẻm nhỏ, cạnh song thưa.
Đây hành lang gỗ đêm trăng lạnh.
Kìa mái nhà tôn chiều tạnh mưa.
Văn Nhiệm, Ngọc Sơn mê đọc sách.
Tiến Hùng, Hữu Khổ thích bông đùa.
Mỗi người một vẻ làm ta nhớ.
Sách vở đèn khuya đã mấy mùa.

Đoàn Thuận




.

*



  tranh của Aldo Mazzi




VỀ ĐẤT TRỌ CŨ

____________________________
Tg. Đoàn Thuận

 

 

        Khi nghỉ hưu, tôi vào lại đất trọ Sài Gòn cũ, tìm vài nơi chốn xưa. Tất cả như khác lạ.               
       Hỏi thăm Xóm Ruộng Cỏ, chẳng ai biết. Con đường từ Rạch Chiếc, vòng theo bờ sông, ra đầu cầu Sài Gòn, nối liền xa lộ, mang tên người lạ lẫm. Gác hoa xoan như khuất sâu sau dãy phố cao tầng. Ngôi nhà ngói cổ của U Già ngày nào, thay bằng bốn căn liền kề, với số nhà mới. Biệt thự Dr.Ann, sát vách một nhà lầu cửa kính, chủ mới là một đại tá bộ đội. Khu La Palace xưa, giờ thuộc đất quốc phòng. Phường Thảo Điền thay tên cho Phố Bên Cầu.                               
.
          Người bản địa trụ lại rất ít, hầu hết đã di dời di tản khắp nơi. Người mới, phần đông là tướng tá, cán bộ cao cấp thuộc quân đội công an,và ngành thông tấn xã, từ miền Bắc chuyển vào sau 1975. Căn cứ quân sự quốc phòng chiếm môt vùng khá rộng ở bên đầu cầu Sài Gòn, thay căn cứ hải quân giang thuyền cũ.
Làng Báo chí gần như trải dài theo Xóm Ruộng Cỏ xưa, bên Rạch Chiếc.

     Nhiều con đường, mang tên nhân vật chính trị miền Bắc, chạy qua những khu phố sang trọng, những biệt thự biệt phủ, những dãy nhà lầu cửa kính đèn màu, những khu văn hóa mới với trường đại học cao đẳng, trường dạy tiếng nước ngoài, chung cư khách sạn nhà hàng cao tầng. Khu thơ mộng yên tĩnh ở ngoại thành, bên cầu Saigon, trước 1975, không còn nữa.                    .            
        Suốt thập niên 60, Phố Bên Cầu là miền đất trọ thân thiết với tôi, một thời sinh viên áo vải. Ngày mới lên đại học, tôi trọ trên một gác cây cũ, ở Xóm Ruộng Cỏ, gần Rạch Chiếc. Dân cư, hiện hữu lâu đời tại đây, sống nhờ vào vườn tược. Những ô vườn rộng với nương rau, luống cải luống hoa, với nỗng cỏ chỉ. Vài đám ruộng lúa nước một mùa, còn lại là ruộng trồng cỏ kiểng mượt xanh quanh năm. Dân sống hiền hòa với tình làng ghĩa xóm, tương trợ lẫn nhau. Nhờ vậy, tôi có một nơi ăn ở đi học phù hợp với hoàn cảnh nghèo bơ vơ quê mùa của một dân ruộng. Sau này, tôi xin được chỗ dạy ổn định, nên chuyển vào trung tâm thành phố. Dù vậy, tôi vẫn thường xuyên đi về nơi đây, nhất là khu La Palace. Sau những ngày đi học đi dạy vất vả, chúng tôi về đây nghỉ ngơi, đọc sách, giải trí, trao đổi đôi điều về ngôn ngữ văn chương, vì phần lớn Nhóm Quốc Âm cư ngụ hay trọ học tại khu vực rộng lớn, nằm hai bên đầu cầu Saigon.

          Cuối đời, tôi trở lại miền đất trọ cũ, nhưng người cũ gần như không còn ai, còn chăng chỉ trong ký ức, trong không gian mạng. Với sự giúp đở của Giáo Hiệu, qua internet, tôi liên lạc với thân hữu đã lưu vong khắp nơi qua nhiều năm tháng. Phần lớn, tưởng tôi đã qua đời sau 1975. Nay gặp lại, trong không gian mênh mông xa vắng, nhưng tưởng chừng đang cùng nhau cắp sách đến trường, cùng soạn bài đi dạy, cùng nhâm nhi cà phê, cùng dạo chơi nơi đường phố vắng, cùng buồn khi xa nhau, cùng vui khi hội ngộ…Biết bao hoài niệm đưa tôi về một thời xa xưa, ngỡ như bị vùi quên dưới cát bụi. Tôi thầm cám ơn trời đất cho chúng tôi còn sống, dù mỗi người lưu lạc mỗi phương.

             Thào Điền, 2008
                   ĐOÀN THUẬN.

 

 




VỀ

Trót đi có lúc phải về.
Vườn xưa khép cửa bạn bè với hoa.
Đất trời một cõi riêng ta.

Thảo Điền,2094
ĐOÀN THUẬN



ƯỚC HẸN

Người đi ước hẹn một chiều.
Mùa thu biếc phủ lên điều tưởng quên.
Ở đâu neo bóng con thuyền.
Ta như trăng vỡ một miền cỏ lau.

Người đi ước hẹn mùa sau.
Ta chiều đất cũ nhớ màu mắt xưa.

ĐOÀN THUẬN





CHIẾC LÁ NGÀY VỀ

Con đường qua ngang nhà em
mang tên người xa lạ
một chiếc lá bay vào ký ức đêm.

Chiếc lá chưa vàng úa chưa xanh xao
không từ mùa thu, không từ mùa hạ
niềm hoang sơ đâu thắm sắc màu.

Con đường lạ đưa về cõi nhớ quen
sách cầm tay mấy mùa xóm học
khờ dại đôi điều lẽ nào dễ quên.

Giọt mắt không âm thanh lời buồn
còn rơi trong chiều e ấp
con tàu rời ga heo hút gió sương

Luân lạc ven trời khoảnh khắc giấc mê
tìm thăm quê cũ gặp chiếc lá mưa ướt
tôi như tưởng lạc lối về.

ĐOÀN THUẬN



Về lại
ĐẤT TRỌ CŨ


Tôi về lại Thảo Điền, đất trọ cũ,
gặp u già ngồi lặng dưới hiên đêm.
Mái nhà rêu nghiêng nghiêng vào quá khứ.
Bóng trăng non soi lạnh nửa mặt thềm.

Tôi cũng gặp ở đâu trong cõi nhớ:
con đường chiều cỏ dại cánh hoa vương,
em bé bỏng chậm chân về xóm học,
sách cầm tay e ấp lá thư buồn.

Tôi quên mất đã một thời trai trẻ
đuổi bắt mình quanh quẩn ở phố mây,
đâu có biết cây xoan thành cổ thụ,
nơi tháng ngày vỗ cánh tuổi thơ bay.

    
Thảo Điền, một chiều thu
       ĐOÀN THUẬN



VỀ
CHỐN CŨ

Ta về, người đã đi lâu,
nghe hoang phế phố, nghe lầu vắng không,
nghe buồn cứ thế mênh mông,
nghe khuya thấm lạnh vào trong chỗ ngồi.

Thảo Điền, 2014
ĐOÀN THUẬN

 

 

 

 

VỀ
XÓM BÊN CẦU

Về nương náu Xóm Bên Cầu.
Bỏ sau lưng tiếng hạc lầu hoàng hoa.
Dặm đường đã dẫm chân qua.
Bến thuyền lau trắng và ga vắng người
.

                                                                                                                 

Thảo Điền, 2004
ĐOÀN THUẬN

 

 

Về RẠCH CHIẾC
nhớ RUỘNG CỎ.


Nhớ sao Ruộng Cỏ ngày nao,
Nổng xanh cỏ kiểng, ruộng rau, luống cà,
Nhà vườn, ao cá, nương hoa.
Ngoại ô thơ mộng, nhân hòa yên nhiên.

Khi sang tên phố Thảo Điền.
Chung cư, biệt thự, sảnh tiền, lầu cao.
Quốc phòng, thông tấn xã rao.
Đất đai doanh trại chuyển giao lập Phường.

Dân cư bản địa cố hương
Di dời di tản, tha phương xa mờ.
Dân đen lỡ vận thất cơ
ngờ như khách lạ nơi bờ bến xưa.

Tôi về lầm lủi dưới mưa,
tìm thăm Xóm Trọ mấy mùa thư sinh.
Người xưa đất cũ nghĩa tình
giúp nhau điều kiện tồn sinh với đời.
Giúp tôi được gặp lại tôi.

Rạch Chiếc, một chiều mưa
ĐOÀN THUẬN




NHỚ CỘI  MAI

Trời đông hơi lạnh chờ xuân sang.
Riêng tôi lụ khụ còn lang thang.
Xa xôi quê mẹ ngày xế bóng.
Ở trọ xứ người buồn miên man.

Nhớ cội mai xưa sân nhà vườn.
Đã từng đón tôi ngày hồi hương.
Nhụy hoa thơm dịu tóc du tử.
Sau mùa phiêu bạt cùng gió sương.

Sân trường phượng vĩ màu tơ vương.
Bụi phấn bụi hồ, lẫn bụi đường.
Lỡ thầy lỡ thợ, đành lỡ độ.
Từ giã cội mai, lại tha phương.

Tôi nay lơ mơ phận đồ già.
Bút nghiên bụi bám thêm xót xa.
Con chữ nằm im trang nhật ký.
Lưu dấu cội mai xuân quê nhà.              


Thảo Điền 2014
ĐOÀN THUẬN




NƠI THÔN DÂU

Tôi đã về hưu đâu bao năm
trường cũ kề bên ngỡ xa xăm
lá hoa phương vĩ mùa học trước
như thể rơi đầy cõi trăm năm

Bao ngày mưa nắng cùng bão giông
ta đến ta về bàn tay không
bảng đen phấn trắng hồn yêu trẻ
một tấc lòng quê giữa đục trong

Ai đã ra đi chẳng trở về
buồn vui như gió liễu ven đê
hoàng hoa theo tiếng thời gian vỡ
cát bụi phủ dần lên bến mê

Về với cội mai khóm trúc thưa
giàu có đời cho hương không mùa
nắng mưa sương gió kho vô tận
của cả hôm nay lẫn ngàn xưa.

ĐOÀN THUẬN

 




RÊU PHONG ĐỀN CŨ


Sống trong lặng tĩnh đời thường.
Rêu xanh bám trụ chân tường đền xưa.
Nơi từng tịnh dưỡng diệu thừa.
Yên nhiên trước nắng gió mưa mê mờ.

Thân rêu đôi lúc lơ mơ.
Lá teo lí nhí phất phơ trong chiều.
Gốc gầy thiu thỉu đìu hiu.
Thầm mong mưa móc liu riu mái đền.

Hương pha nhụy phấn bồng bềnh
Hoa chen kẽ nứt đất nền rã riêng.
Cùng làn mây nước du miên.
Từ trời buông thả xuống hiên địa đàng.

Đền đài xưa cũ điêu tàn.
Thềm hoang cỏ dại, bụi loang cung đường.
Am mây trong bóng khói sương.
Tĩnh trong tĩnh tại khe tường rêu phong.

 

 Thảo Điền, 2014
ĐOÀN THUẬN


 

 

DƯỚI MÁI RÊU.

Ta về lợp lại mái rêu.
Nghe hương đất cũ ngoài lều gió mây.
Nghe buồn xa lắc tháng ngày.

Nhà xưa nghiêng dưới bóng cây.
Nền thềm nứt nẻ bám đầy rêu hoang.
Cửa tre vách lá rách toang.

Ta về trước cảnh điêu tàn.
Lập vườn tượng đá giữa hàng trúc mai.
Cuối đời yên ả nơi này.

Không còn làm thợ làm thầy.
Ta xin làm bộ lấy ngày làm đêm.
Làm thinh cho lặng lẽ thêm.
.
 Đoàn Thuận

 

 

 TRÀ XANH, MỘT TÁCH.

Sớm mai rót một tách trà.
Tôi ngồi chờ nắng trời xa lên dần.

Cuối đời lụ khụ cù lần.
Trà xanh vị chát thay dần cà phê.
Đâu hay khờ khạo u mê.
Cà phê phin đặc bỏ bê nhạt phèo.

Âm thầm một góc chèo queo.
Ngờ rằng hiu quạnh ăn theo nỗi buồn.
Ngoài hiên đôi giọt sương buông.
Lơ mơ ngỡ bóng nước nguồn phong ba.

Nhâm nhi nghĩ ngợi qua loa.
Ngụm trà không thể xóa nhoà niềm riêng.
Cũng đâu xóa được ưu phiền.
Cho thân phận mỏng tịnh yên dưới trời.

Trà sen thơm tự bay hơi.
Một tôi một tách, không lời chê khen
Dù thời trai trẻ đã quen.
Cà phê, sáng tối, đậm đen pha đường.

Nay tôi tóc rối pha sương.
Vẫn ghiền vẫn nhớ thoáng hương ngày nào.

Thảo Điền, 2014
Đoàn Thuận




CÀ PHÊ, MỘT TÁCH

 

Cà phê, một tách một tôi.
Bên thềm nhà vắng, ghế ngồi dựa hiên.
Một đời bụi phấn bút nghiên.
Một giây lặng lẽ xua phiền muộn đi.

Cà phê, một ngụm nhâm nhi.
Hương nhu ngào ngạt thầm thì trên môi.
Như thơm một thoáng bồi hồi.
Nụ hôn tình thắm đầu đời đã qua.

Cà phê, một giọt phin pha.
Một giọt đáy tách đậm đà chất quê.
Một mùi vị thuở u mê.
Chìm vào hoa cỏ bốn bề gió sương.

Cà phê đắng, một chút đường.
Một phần dịu ngọt nhún nhường đắng cay.
Buồn đau lánh bước bùn lầy.
Tịnh tâm giữa cuộc tỉnh say ở đời.

Cà phê, một tách đầy vơi.

ĐOÀN THUẬN



CÕI YÊN HÀN

Xa đâu vương sợi tơ trời
Âm xưa lắng một dòng trôi vào chiều.

Thềm ngoài mưa đọng xanh rêu.
Em co ro bóng ngồi khêu bếp tàn
Nhen lên trong cõi yên hàn
Thoảng hương tóc cũ bàng hoàng trong nhau.

Thảo Điền, 2014
ĐOÀN THUẬN





.





.
tranh bìa của Hồ Hữu Thủ



Đôi điều về
tập thơ
SẮC PHƯỢNG
__________________________________
Tg. CAO HOÀNG TRẦM



          Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 5 Ngày Thơ Việt Nam (Xuân Nguyên Tiêu Đinh Hợi), tôi có đôi điều cảm nhận bước đầu về tập thơ Sắc Phượng của Đoàn Thuận.

         Tôi và anh Thuận là bạn rất thân từ nhỏ, thời còn thư sinh, cũng là lúc tập làm thơ qua trang vở học trò, thường trao đổi học hỏi lẫn nhau cho đến hôm nay. Tôi rất mến anh với tác phong giản dị từ tốn.

         Trong cả cuộc đời làm thầy giáo, anh có những trang viết ghi lại một thời đã qua dưới mái trường, Nay, anh về vui thú điền viên với vườn hồng và tạc tượng, anh tự hỏi:

Đất mới bao người vui.                      .
Trường xưa còn ai nhớ ?

              Anh là thầy giáo Trần Văn Thuận, một nhà mô phạm, một đời gắn bó với mái trường, với ngành giáo dục, nên Sắc phượng cũng là tập thơ duy nhất trong nước đến nay viết về giáo dục, về một người đã trải qua thời thư sinh áo trắng, thời đứng trên bục giảng.

             Thời áo trắng: Chúng ta dường như ai cũng có lần cắp sách đến trường, đã từng  đi về trên lối mơ hoa:

Tóc xanh áo vải vui đèn sách                            .
Một thuở đầu đời xa.

            Thuở đầu đời ấy vẫn còn nguyên trong ký ức của Đoàn Thuận như một thời hoa mộng:

 Một sân trường nhỏ
Đổ bóng hồn tôi.
Người đi xa mãi.
Mùa về hoa rơi.

           Biết bao kỷ niệm hồn nhiên dưới mái trường xưa, trong xóm học cũ.

Ai về nơi chân mây
Bỏ quên miền thơ ngây
Vô tư bên đèn sách.
Những mùa hoa xoan bay.

và anh đã ghi vào lưu bút ngày  xanh.          

Đường thơm bao kỷ niệm                                 .
Lưu bút ghi hẹn chờ                   .

        La Gi, Hàm Tân, miền đất cực Nam Trung Bộ, địa phương tiêu thổ kháng chiến là nơi anh trải qua thời thơ ấu. Kỷ niệm sâu sắc nhất trong ký ức của tác giả là mái trường nơi bưng biền,
với những tên trường đi cùng năm tháng tản cư như trường Thị Ngọt, Suối Dứa, Sao Cháy.

Đâu lớp học xưa thuở i tờ.                          .
Bưng biền sâu khuất xóm tản cư.                .           
Ngày nao dưới mái trường Sao Cháy.                 .
Lời thầy thuở ấy như lời ru.

         Sau ngày bình yên, anh về lại nơi rừng núi cũ tìm thăm, chỉ thấy:

Trên vết đạn bom rừng lên nhanh.                      .
Dưới cỏ lau in bước lữ hành                            .
Bà con xóm mạc bao thu trước                            .
Bóng tạc vào hoa bên non xanh.   

          Mảng thơ tạ ơn thầy cô bày tỏ tấm lòng tôn sư trọng đạo rất chân thành. Đối với anh, thầy cô là cha mẹ hiền mà công ơn bao la như sông núi biển cả. Tôi rất tâm đắc những bài “Thầy tôi”, “Cô tôi”…đã chuyển tải cảm xúc sâu lắng bằng chính tâm hồn trong trẻo của người học trò nhỏ và tấm lòng của một nhà giáo nối gót thầy cô.

          Cảm xúc của Đoàn Thuận rất mạnh, dội vào tiềm thức, để hồn thơ thấm sâu:               

Lời thầy xưa nghe như trong mơ.                    .
Bao mùa êm đềm như lời thơ                             .
Mái đầu tóc trắng trên trang viết                     .
Trên những trang đời của em thơ.

         Với anh,Thầy như Người gieo hạt:

Con đến sau mùa hoa.                                 .       
Ngát đòng hương nhớ Người gieo hạt                  .                  
Núi tạc lời sông xa
.

 Cô là người mẹ hiền, như dòng suối mát:          .                                      
Cô như người mẹ thời bé bỏng                            .
Nuôi lớn hồn ta đến hôm nay       

            Thời đi dạy học: Qua tập thơ Sắc Phượng, chúng ta bắt gặp những lời  tâm sự sâu sắc của một nhà giáo yêu trẻ, yêu nghề, tự rèn luyện phẩm chất đạo đức của người thầy. Trường lớp và ánh mắt thơ ngây của học sinh, mái đầu trên vở học, luôn luôn là cái bến neo giữ tâm hồn anh.      .
Vầng trán em trang đời đang mở                     .
Chim én về đất nước vào xuân                      .
Đường phấn kể những mùa lịch sử                .
Làm ta quên gian khó nhọc nhằn                
..
      Khắc ghi hình ảnh người thầy xưa,Đoàn Thuận người học trò cũ,lại nối tiếp sự nghiệp thiêng liêng  cao đẹp ngày nào:                       .
Lối trúc hiên rêu nhẹ gót hài                            .                              
Dấu mùa sắc cỏ bóng chiều phai                 .
Tưởng đâu người cũ xa vời mãi.                   .
Giờ lại cùng nhau nối gót thầy.                    .
       
và đó cũng là ước nguyện của anh:          .                  
Tôi trải nửa đời trên bục giảng                       .
Gửi tấc lòng quê cho núi sông.                 .          
Cùng đàn em nhỏ vui cấy chữ                     .
Mong những mùa sau nặng trĩu bông.
                   . 
         
Tập thơ Sắc Phượng, xuất bản tháng 10 năm 2006, là một trong những đứa con tinh thần của Đoàn Thuận ở  quãng đời dạy học và sáng tác của anh. Tập sách ghi lại bước đi bền bỉ theo nghề dạy học và những cảm xúc gạn lọc giữa cuộc sống thăng trầm.

          Hàm Tân, 2007                           .
           CAO HOÀNG TRẦM

 

*

CÕI PHƯỢNG

Ai về lối mơ hoa.
Tóc xanh áo vải vui đèn sách,
Một thuở đầu đời xa.

La Gi,1972


MIỀN PHƯỢNG XƯA

Trong tôi có một mái trường,
một căn gác trọ, một đường hoa bay,
một ô cửa bóng trăng đầy,
một hoa phượng ép cuối ngày hạ mưa,


Một hình bóng lẫn trong xưa,
một trang lưu bút chưa đưa tới người,
một hàm số tuổi đôi mươi,
một lời đáp, một nụ cười trăm năm.


Một ngày rồi đã xa xăm.
Cỏ hoang khuất lối. Bến âm thầm thuyền.
Lá chiều rụng xuống vô biên.
Tôi về, bước nhẹ, qua miền phượng xưa.


.


CÓ MỘT NGÔI TRƯỜNG

Thì thôi, phố hạ mù xa.
Đã bao mùa phượng đi qua đời mình.

Sao còn trong nỗi lặng thinh ?
Những trang vở, những dáng hình ngây thơ
nghiêng nghiêng trong ánh chiều mờ
và nghiêng trên một vần thơ đầu đời.

Một con đường nhỏ xa xôi.
Một ngôi trường ở trong tôi không lời.


MÙA PHƯỢNG CŨ

Khi về nhặt cánh phượng buồn,
Nghe mưa tạt ướt nẻo đường về xa.
Tàn lâu rồi những mùa hoa.
Của em áo trắng, của ta dại khờ.





PHƯỢNG VĨ


Hè về lại nhớ mái trường
Nhớ hoa phượng đỏ để hương cho đời.

Từ hành lang giọt nắng rơi
Nhớ đàn em rạng rỡ cười hồn nhiên
Trán thơ ngây, mắt dịu hiền
Những trang sách mở nghiêng nghiêng mái đầu

Nhớ dòng phấn kể xưa sau
Chuyện cha ông,chuyện tình sâu nghĩa nồng.
Như trời cao như dòng sông
Nhớ người dựng nước Lạc Hồng xưa nay
Một cánh chim, một ánh ngày
Muôn dân cùng một lòng xây dựng đời.

Mùa về quê Mẹ xa xôi.
Nhớ sao cây phượng cuối trời nở hoa.

Hà Tiên, 1971





SẮC PHƯỢNG

Trời chợt đổ mưa về xóm học,
một mình tôi dưới bóng mùa thu,
mái trường xưa trong lớp mưa mù,
nghe xao xuyến tấc lòng rẻ dại.

 

Con đường thơm ngày nào ái ngại,
chân ngập ngừng theo dáng chiều rơi,
dưới bóng hoa phượng đỏ chân trời,
hương cây cỏ trong hồn vô lượng.

Từ độ ấy một mùa hoa phượng,
nắng hanh vàng vương bước chân qua,
một người đi dưới bóng mưa hoa,
sân trường nhỏ thêm mùa xa vắng.

Đêm sách vở, đêm dài thầm lặng,
một trang đời nghiên bút ngày xanh,
tóc và hương và mắt long lanh,
sắc phượng thắm vào hồn đau nhức.

Chân trời cũ mưa chiều không dứt,
một mình tôi trở lại trường xưa,
nhớ người đi dưới bóng hoa mưa,
và sắc phượng đỏ màu tưởng niệm.

        Gia Định,1964
          



*


NHỚ NGƯỜI GIEO HẠT.

Người từng gieo hạt mùa sau.
Nơi hoang vu đất, giữa màu hoa phai.
Trên trang vở, giấc mơ dài.
Bên đời, nhóm lửa bếp ngày đèn đêm.


ĐOÀN THUẬN

 

 

TRƯỜNG HUỲNH
tưởng nghĩ về Chu Văn An

Áo nâu am cỏ Đình Văn cũ
Nhất hồ thế giới bất tri thu"
Trường Huỳnh nặng nỗi đau nhân thế
Một án thư treo vách sương mù.

Sài Gòn 1964



NGƯỜI GIEO HẠT

kính tặng thầy Giản Chi 

Ở nơi ấy có người hẹn đến
Gọi chim về gieo hạt lũng xa
Những trang sách thơm lừng hương cỏ
Và lời chiều thiếp ngủ trong hoa.

Sài Gòn, 196


 

CÔ TÔI
kính tặng cô Lê thị Bích,
              cô Khưu Sỹ Huệ

Một mùa học nữa lại đi qua
Vẫn đứng thản nhiên cây phượng già
Đâu biết trong tôi bao thương nhớ
Cô của tôi xưa bao ngày xa.

Vẫn nhớ ngày nao thuở ấu thơ.
Câu chữ đầu đời lời ngây ngô.
Ngọng nghịu đánh vần tên đất nước.
Nắn nót từng dòng theo tay cô.

Tôi được lớn khôn giữa đất trời,
nhờ dòng sữa Mẹ ru bên nôi.
Cô dắt dìu đi từng bước nhỏ,
từ lớp học xưa vào cuộc đời.

Năm tháng dần qua như cát bay.
Còn nguyên nỗi nhớ một phương này.
Cô như người Mẹ thời bé bỏng.
Nuôi lớn hồn tôi đến hôm nay.


 Mỹ Tho, 1972
CÁT SỸ



THẦY TÔI
Tưởng niệm thầy Nguyễn Đức Hiếu.

Cây bàng xanh nghiêng trong chiều xuân.
Về thăm trường xưa lòng bâng khuâng.
Gót giầy trên những thềm rêu đá,
Như bước thời gian về rất gần.

Lời thầy xưa nghe như trong mơ.
Bao mùa êm đềm như lời thơ.
Mái đầu tóc trắng trên trang viết,
trên những trang đời của em thơ.

Thầy ngồi bên song trong bao đêm.
Sương khuya giăng giăng mờ ánh đèn.
Tưởng thầy như chẳng bao giờ ngủ.
Bài soạn từng ngày ngổn ngang thêm.

Đôi khi thầy buồn và âm thầm.
Thầy như người về từ trăm năm.
Ưu tư hằn nếp trên vầng trán.
Sách vở bút nghiên hồn xa xăm.

Luôn luôn thầy hiền như cha tôi.
Trang nghiêm thầy khuyên răn từng lời.
Chăm lo từng đứa học trò nhỏ,
cả người ra trường đi muôn nơi.

Cây bàng nghiêng che chiều êm trôi.
Trường xưa con về, thầy đi rồi.
Nửa đời theo gió sương cát bụi,
vẫn tưởng còn như đứa trẻ thôi.

CÁT SỸ

 

 

THẦY CÔ XƯA.


Giã từ lớp cũ trường xưa.
Thầy cô phiêu bạt nắng mưa bên trời.
Bút nghiên bụi phấn không lời.
Cùng bao bạn trẻ xa rời cố hương.

Lương sư dưới bóng bụi đường.
Lời nguyền hưng quốc như vương mối sầu.
Hoang tàn bao lối bích câu.
Thư sinh áo vải cúi đầu biệt ly.

Tình xưa nghĩa cũ thầm thì.
Nhân văn “nhân bản” đạo nghì phôi pha.
Cội nguồn “dân tộc” nhạt nhòa.
Tầm nhìn “khai phóng” sương sa che mờ.

Lương dân di tản bơ vơ.
Di cư đau xót về bờ bến xa.
Đền đài đất tổ quê cha.
Chìm trong bể khổ ta bà tang thương.

Thầy cô lưu lạc dặm đường.
Nhớ thương Đất Mẹ mái trường xưa xa.

Nancy,1976
CÁT SỸ


NHỚ VỀ TRƯỜNG SỸ TÃI

Hai tháng học, nhớ hoài trường Sỹ Tãi.
Dù khói sương cát bụi lấp lối về.
Mùa phượng vĩ nở buồn qua trí tưởng.
Thầy Cô xưa ẩn hiện trong giấc mê.

Thầy Kiêm giảng khởi đầu “Nhành lúa mới”,
Cùng chúng tôi nhìn lại góc quê hương.
Giặc càn quét đạn bom cày nát đất.
Dân đen về xuống mạ những đêm trường.

Cô Linh vẽ “Đường cây xanh” tít tắp.
Tuổi thơ tôi theo nét cọ về xa,
Thả mơ ước vào khung trời an tịnh.
Để xuân thu màu sắc tự phai nhoà.

Thầy Hiệu Trưởng chân tình ngày khai giảng:
Cần thành tâm học hỏi “để làm người.”
”Nhân bất học, tức thị, bất tri lý”.
Học với thầy với bạn, “học ở đời “.

Trường Sỹ Tãi giúp tôi vào Đệ Thất,
Cho lòng tôi nhận ra nghĩa Nhân Văn.
Nơi thăm thẳm giữa muôn trùng thiện ác,
Lời Hiền Nhân như tiếng vọng vĩnh hằng.

Sài Gòn, 1974.




VỀ THĂM TRƯỜNG CŨ


Quẩn quanh lưu lạc tôi về
Lặng trong nỗi nhớ bạn bè thầy xưa.

Cỏ xanh phai úa đôi mùa,
Và đây màu phượng đỏ mưa trường chiều.
Một hành lang vắng buồn hiu,
Bụi thời gian phủ ít nhiều ghế con.
Buổi chia tay mấy năm tròn
Ngày xa lớp học đã mòn tiếng ru.

Bao mùa mỏi bước phiêu du,
Từ xa xưa ấy vi vu lời sầu.
Mùa thu nào đọng mưa ngâu
.




 

NHỚ

Xưa mái trường thôn dưới chân đồi.
Giữa miền hoang thảo dòng sông trôi.
Lời cô thầy thấm trong nghĩa chữ.
Một thuở hồn nhiên lay lắt tôi.

Sài Gòn, 1964


TẠ ƠN THẦY CÔ

Con đến sau mùa hoa.
Ngát đòng hương nhớ Người Gieo Hạt.
Núi tạc lời sông xa.

Sài Gòn, 1964
CÁT SỸ

 

 

LỚP CŨ TRƯỜNG XƯA ..

Giã từ lớp cũ trường xưa.
Giã từ đất mẹ nắng mưa bao ngày.
Giã từ đường phượng hoa bay.
Hương nhu thơm thảo tóc mây một thời.
Tản cư lớp học lên đồi,
trong rừng Sao Cháy, bên trời núi non.
I tờ chữ viết bé con,
đưa tôi lần bước dặm mòn bút nghiên.

Năm tư, rời khỏi bưng biền.
Lớp qua Láng Đá rừng thiêng Dinh Thầy.
Lớp theo trâu cặp trâu bầy.
Học hành giữa chốn cỏ cây ruộng đồng.

Lên thành, học lớp trường công.
Tú tài đại học hơn vòng thập niên.
Ra trường Sư phạm, chuyển miền
dạy Văn trung học Hà Tiên, miệt vườn.

Sau thời phiêu bạt tha phương,
hồi hương dạy học nơi trường Bình Tuy.
Vinh Tân Quảng Đức La Gi
giúp tôi tịnh dưỡng đạo nghì cha ông.

Rồi khi thống nhất non sông.
Cấp 3 Trung học Phổ thông thay dòng.
Từ trường Nguyễn Huệ Bán công,
về hưu tôi lại buồn lòng xa quê.

Thủ Đức, 2004
ĐOÀN THUẬN



LỚP LÁNG ĐÁ

Lang thang Láng Đá rừng dầu
Lần tìm lớp học chăn trâu ngày nào.
Nước tràn mặt đá bờ lau.
Tiếng chim tu hú gợi bao nỗi niềm.

CÁT SỸ





LỚP MỤC ĐỒNG

Chăn trâu thả láng thả bưng
giúp nhau học chữ ven rừng bên sông,
ê a từng tiếng vỡ lòng,
giữa đồng mông quạnh tịnh không học trò.

Que than thay bút trời cho.
làm bài tập viết trên mo cau rừng.
với con chữ đói, chữ sưng,
chữ gầy, chữ rách, chữ lừng lửng no.

Đôi dòng chữ chạm trang mo,
ghi vài mơ ước ấm no sau này.
Trên lưng trâu cặp, trâu bầy,
mơ sao được sống tháng ngày thư sinh ?

Hoa sen từ giữa bưng sình,
hương như thơm thảo trước bình minh xanh.
Mục đồng học lóm loanh quanh,
thầm mong quê mẹ an lành một mai.

ĐOÀN THUẬN



TRƯỜNG LÁNG GĂNG

Láng Găng về lại một ngày.
Trường làng lớp cũ vắng thầy cô xưa.
Đôi nhành dương liễu dưới mưa.
Trong tôi như thể đong đưa giọt buồn

Láng Găng,1959
CÁT SỸ


 


TRƯỜNG TẢN CƯ

Về đây trong bóng thu mưa.
Bên rừng núi cũ, lưa thưa xóm nhà.
Ngôi trường như khuất vào xa.
Vách cây mái lá, nắng hoa rơi đầy.

Thầy xa cuối nẻo mây bay.
Lời xưa Thầy dạy còn đây trong lòng.
Vắng Thầy, trời đất mênh mông.
Bạn bè lớp cũ chìm trong tháng ngày.

Đồi xanh lau lách cỏ cây.
Thẳm sâu nỗi nhớ bóng ngày bé thơ.

ĐOÀN THUẬN



TRƯỜNG LÀNG XƯA.


Một mùa phượng vĩ nào xưa.
Mênh mang hương dịu dưới mưa chiều tà.
Vương buồn kỷ niệm đã qua.

Ta thầm nhớ mái trường xa.
Thầy cô bạn học đường hoa hạ tàn.
Một thời sách vở sang trang.

Giã từ xóm học bàng hoàng.
Ta như du tử lang thang cuối trời.
Xa quê xa Mẹ xa khơi.

Bao đêm khuya lạnh sương rơi.
Ánh đèn lưu bút nhắc lời chia ly.
Nỗi niềm xưa mãi thầm thì.

ĐOÀN THUẬN






TRƯỜNG LA DẠ 



Dưới mái Trường La Dạ,
bạn đồng song, đồng hành, 
ghi lưu bút ngày xanh
khi hạ tàn tạm biệt.

Một lần nhớ mải miết,
dù tùy bút không dài,
dù màu mực dần phai,
vẫn còn trang ký ức.

Vẫn nằm trong tâm thức,
của người đã xa trường,
đã phiêu bạt tha hương,
lưu dấu bao kỷ niệm.

Khoảnh khắc chân trời tím,
tưởng nhớ về dáng hoa,
hiền dịu trong chiều tà,
trên sân trường Xóm Núi.

Tiếng chim rừng bên suối,
hòa âm lời giảng bài,
theo gió rừng thu phai,
một thời Trường La Dạ.


La Dạ, 1964
CÁT SỸ



 
 
TRƯỜNG  MẪU GIÁO TRÍ ANH

Xây một ngôi trường
cho con chúng ta.

Ngôi trường mẫu giáo,
đứng trong nắng mai,
đỏ tươi màu ngói,
Hướng nhìn tương lai.

Tưởng như ở đó,
có những cô thầy,
phấn trắng trong tay,
viết lên ước vọng
qua từng tháng ngày.

Như có ở đó,
bao giọt mồ hôi,
bạc vai áo thợ,
bay qua núi đồi,
thấm lên nương rẫy,
lắng vào biển khơi.

Và luôn ở đó,
có cô giáo trẻ,
như mẹ thân thương.
cùng đàn em bé,
hát vang sân trường.

Ngôi trường ngói đỏ
như nở nụ cười
giữa đời thắm tươi.
Ôi, Quê Hương ơi
xin dâng lên Người.

La Gi 1965
CÁT SỸ




TRƯỜNG CHÂU VĂN TIẾP

Trường Châu Văn Tiếp tôi về thăm.
Bạn hữu thầy cô đã bặt tăm.
Mái ngói nghiêng rêu sầu mấy hạ.
Hành lang khuất dấu lạnh bao năm.
Con đường hoa mộng vào mê đắm.
Nếp áo thư sinh lấm bụi lầm.
Trong bóng phong sương mùa chuyển dịch.
Mưa thu từng giọt rơi âm thầm.


CÁT SỸ



TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN KHOA.


Tôi từ biển mặn, đồng ruộng xanh,
một trẻ chăn trâu lên tỉnh thành
dò dẫm tìm đường vào đại học,
Văn Khoa, Sư Phạm nơi Sài Thành.

Hòn Ngọc Viễn Đông, miền đất lành.
Phương Nam, đậu lại cánh chim xanh.
Văn minh Lúa Nước nền Âu Lạc.
Tiếp đón dân quê vào học hành..

Tôi như du tử phận mỏng manh,
vẫn theo nguyên lý sự vận hành,
Nhân Bản Dân Tộc và Khai Phóng,
mở tầm hiểu biết dưới trời xanh.

Ở nhờ ăn đậu sống âm thầm,
tự thân rèn luyện xa mê lầm,
kèm trẻ tư gia, dạy tư thục.
nương tựa vào người có thiện tâm.

Dân quê dân phố nghèo hay giàu,
tình làng nghĩa xóm động viên nhau,
giúp trẻ học hành đến thành đạt,
xây đời an lạc cho mai sau.

Sài Gòn,1965
CÁT SỸ


 

 





TRƯỜNG MỚI


Em học trường mới
Mái ngói lầu cao
Cửa sổ kính màu
Và tường vôi trắng

Ở ngoài sân nắng    
Hàng cây phượng già
Như đứng chờ hoa
Cành xanh bóng mát

Nhiều bạn học khác 
Ở tận thôn xa
Trường như  cái nhà
Mái còn lợp lá.

Vùng cao rẻo lạ
Cõng chữ đến trường
Thầy cô thân thương
Vượt ngàn gian khó





ĐI HỌC

Một áo trắng xinh
cho ngày tuổi nhỏ.
Một con đường phố
cho rợp bóng cây.

Một sân trường này
cho đầy phượng vĩ.
Một trang vở nhí
cho lá thuộc bài.

Một mùa hạ dài       
cho em mong đợi.
một năm học mới
được lên lớp trên.




HỌC VẦN

Ai ca u ơ
Khi chiều hết nắng
Bóng trôi lờ mờ
ngang thềm nhà vắng.

Tiếng ai ru hờ 
ru chú dế ngủ
gật gà gật gù
trong lùm cỏ rủ.
Thuyền ai neo chờ 
lờ đờ
sông chảy
lặng im như tờ
dưới bờ lau sậy.
Sương đêm dật dờ .
Em như mơ thấy
học vần bên cô
phấn bay đầy vậy.
 
 

MỘT BUỔI HỌC TỐI


Trò xưa học dưới sao đêm.
Tưởng như còn đó bên thềm trăng non.

Ở đâu mười sáu trăng tròn.
Mùa thi vội đến, trăng còn chơi xa.

Ngại khi xế bóng trăng tà,
Những đêm thức với canh ba chong đèn.
Ngày đi kèm trẻ phố quen,
Đêm về nhóm lửa cài then học bài.

Người xưa, nay đâu còn ai.
Bên đời heo hút dấu hài rêu phong.
Một tôi ngồi giữa mênh mông,
Những trang sách mở theo dòng thời gian.

Câu văn chữ nghĩa ẩn tàng.
Từ nền văn hiến bốn ngàn năm dư.
Giúp tôi, một kẻ khờ ngu.
Lần tìm ra lẽ thực hư cõi đời.



BÊN THỀM ĐẠI HỌC


Một thoáng nắng bên thềm đại học
cũng đủ vàng mái tóc em.
Một buổi sáng xanh trong mắt biếc
đủ ru ta đôi phút êm đềm.

Chừng như có điều gì e ấp.
Sách cầm tay mà lòng ở đâu xa.
như thời gian hẹn chờ lâu lắm.
Tà áo mân mê tay nhỏ thật thà.

Trời yên gió sân trường thật vắng.
Và lòng ta yên tĩnh bên em.
Như rất đủ trong chiều suy nghĩ.
Em và ta đâu cần nói gì thêm.

ĐOÀN THUẬN



 

QUA NHỮNG MÙA HỌC

Lặng yên đường xóm học.
Sách khép vào mùa thi.
Sân trường im tiếng trống.
Lưu bút tiễn hạ đi.

Ai mê say hoàng hoa.
Ai buồn vui phương xa.
Ai biệt mùa học cũ.
Vàng lá rơi thu qua.

Về đâu, chim di rét ?
Liễu hồ đời xanh buông.
Ánh lửa chiều xóm trọ
Lớp học mờ trong sương.

Ngày xuân trôi xa dần.
Trang viết dài bâng khuâng.
Hương giấy thơm mộng ước.
Áo trắng thêm phong trần




TỪ GIÃ THƯ SINH

Chia tay anh em, ta ra đi.
Đêm lặng ngoài xa, sương thầm thì.
Gác trọ ngổn ngang đời lưu lạc.
Nhầu nát thơ văn, sách mùa thi.

Bài toán nước non bao phương trình.
Tay không, đời bạc áo thư sinh.
Phương chiều, đồ thị, ngàn thông số.
Đêm tối tìm đâu trục tung hoành .

Hành trang mang theo có bao nhiêu.
Đoá hoa phượng đỏ của tình yêu.
Đôi dòng lưu bút xanh bè bạn.
Dáng Mẹ già nua dưới mái chiều.

Phân ly, ta buồn chiều quê hương.
Sách vở mờ phai theo dặm đường.
Anh văn , toán học, thơ mới cũ,
Khép lại từng trang dưới mái trường.

 

TỪ BIỆT

Phút giây tay rời tay
ta cúi đầu từ biệt
với bao niềm luyến tiếc
dưới mái trường quê hương.

Trả về người phố phường
nắng vàng vương mái tóc
trên đường chiều tan học
những ước mơ ban đầu.

Thôi bây giờ còn đâu
sương mềm trên mái phố
cùng bên nhau lo sợ
cuộc buồn vui sau này.

Thôi một lần qua đây
để một đời nhớ mãi
biết khi nào trở lại
tháng ngày miệt mài trôi.

Mai này ta đi rồi
giao trả người cõi đó
một phương trời tuổi nhỏ
những dại khờ nên thơ.




 

THƯ PHAI

Trang thư dòng chữ mực màu.
Mùa pha trắng giấy, bụi nhàu vàng phai.
Lời xưa ý cũ ngắn dài.
Vẫn trong tâm thức dù ngày tháng trôi.

            ĐOÀN THUẬN








HƯƠNG XƯA

Một mùa phượng vĩ nào xưa,
mênh mang hương dịu dưới mưa chiều tà.
Ta thầm nhớ mái trường xa,
Thầy Cô bạn học đường hoa hạ tàn

                    ĐOÀN THUẬN






VÀNG BƯỚM


Đường đời xuôi ngược đã qua.
Bến xuân sông vắng cỏ hoa dại đầy.
Ánh trăng nghiêng lạnh hàng cây.
Gió mùa bấc thổi buồn lay lắt thuyền.

Bao ngày sách vở bút nghiên.
Bao mùa phượng vĩ rơi nghiêng khung trời.
Sân hoa sứ rụng chơi vơi.
Hoàng hôn sương phố ru đời vào mơ.

Từng trang lưu bút ngây thơ
Ghi mùa vàng bướm bên bờ đường quê.
Trường xưa lớp cũ đi về.
Nay, im tiếng trống tiếng ve cung đàn.

Thầy cô cách mấy quan san.
Bạn bè xa vắng bàng hoàng nhớ mong.
Mái trường bụi phả sương phong.
Con đường phượng cũ tịnh không tiếng cười.

La Gi,1975
CÁT SỸ

 

 

*



VỀ HƯU

Dù ta chưa đến độ chống gậy lê
nương bóng mây qua bờ trúc cỗi
nhưng đến kỳ
nhường lối hoa cho người trẻ tuổi.

Về đọc bài thơ Nôm dưới mái hiên
thương một thời Côn Sơn của Nguyễn Trãi
bao mùa Lệ Chi Viên
trăng ngàn đời soi lên mấy cõi

Nơi vườn cũ già thêm cội mai
không một bóng thông không một dòng suối
đêm tịnh vắng không trôi
hương nguyệt quế nhẹ qua lối sỏi.

La Gi, 2003
Đoàn Thuận


NGHỈ HƯU

Như hoa nở lụn chuyện muôn phương,
Kẻ sỹ về hưu biệt mái trường.
Ngõ trước đôi khi rêu dại phủ,
Vườn sau lắm lúc cỏ hoang vương
Mai gầy ủ lộc chờ mưa nắng,
Trúc thẳng lên măng đón gió sương.
Phố cũ hè xưa đầy cát bụi
Buồn vui một thuở cõi vô thường.

            Tân An,7/2003




XUÂN HƯU TRÍ

Đinh Hợi mừng xuân chỉ bấy nhiêu.
Lương hưu gói ghém tha hồ tiêu.
Trà sen khách vắng không lo thiếu,
Bánh tét nhà đông chẳng sợ thiu.
Trúc biếc năm qua luôn tiết thẳng,
Mai vàng tháng nhuận vẫn hoa nhiều.
Đời ta hữu hạn trong vô hạn,
Biết đủ dường như đủ mọi điều

Lagi, xuân Đimh Hợi




*





VỀ VƯỜN

Ba mươi năm lẻ làm giáo viên
về vườn xa lớp vắng bạn hiền
dăm pho sách cổ vài chậu kiểng
mai mọc tường đông trúc bên hiên

Huyết áp tuột hoài ngại áo len
lạnh người nhìn lại lối bon chen
lặng yên dưới mái nhà mẹ cũ
xa khuất thầy xưa bao mùa sen.

Tôi có riêng tôi một góc đời
không ai nhìn ngắm sắc hoa rơi
nhà thôn thanh vắng chim rừng đến
ngày tháng theo mùa tự nhiên trôi.

Tiếng sóng biển xa ru bãi bờ
thôn dâu trăng cũ đọng trang thơ
tôi tạc xuân thu vào hồn đá
tìm trong gốc rễ dấu ban sơ.




NƠI THÔN DÂU

Tôi đã về hưu đâu bao năm
trường cũ kề bên ngỡ xa xăm
lá hoa phương vĩ mùa học trước
như thể rơi đầy cõi trăm năm

Bao ngày mưa nắng cùng bão giông
ta đến ta về bàn tay không
bảng đen phấn trắng hồn yêu trẻ
một tấc lòng quê giữa đục trong

Ai đã ra đi chẳng trở về
buồn vui như gió liễu ven đê
hoàng hoa theo tiếng thời gian vỡ
cát bụi phủ dần lên bến mê

Về với cội mai khóm trúc thưa
giàu có đời cho hương không mùa
nắng mưa sương gió kho vô tận
của cả hôm nay lẫn ngàn xưa.



*


ĐƯỜNG TRĂNG

 Mây ngang đỉnh núi chờ trăng muộn.
Ai về mòn mỏi nhớ ai xa.
Trăng không tròn mãi trên ngàn biếc.
Lá vẫn rụng vàng hương khuất hoa.

Tháng năm dần mỏng người vội vã.
Một giọt sương nhòa bóng cỏ cây.
Bàn tay đâu lưu màu hương lửa.
Dấu hài lối ngõ gió mưa bay.

Cát bụi phủ mờ đường hoang cũ.
Từng chiều chậm xuống phía hiên hoa.
Không ai về giẫm bờ đất lạnh.
Trăng lẩn khói mù lấp non xa.




LỐI BÍCH CÂU

Người qua cầu mùa thu.
Lá rơi đầu nguồn bíếc.
Mấy độ tà dương biệt

Lều cây muôn năm trước
Xuân nữa quay bước về
Hoa cỏ đầy bến mê.

Lời quên trong hạt bụi.
Thức giấc dưới ánh chiều
Lối trúc vào quạnh hiu



*


HÀN SỸ

Có hàn sỹ nhặt chiều tà
ẩn trong xóm vắng, đường hoa cúc vàng,
sau lưng bỏ dại bờ hoang.

Trường xưa xóm học xa ngàn.
Xuân thu mấy độ bàng hoàng giấc mơ.
Sương trời ủ dột lời thơ.

Tân An, 2003





THUỶ MẶC

Hay lắm cho ta làm ẩn sỹ
về làng mài mực đầy nghiên trăng
nơi nào bay bổng tiếng tiêu trúc
gối đầu sách cổ mơ sông Hằng

Ta vẽ đời nhau thành thuỷ mặc
ẩn hiện trong chiều suối tóc em
thuyền ta khuất dưới bờ lau trắng
cho nỗi niềm riêng hư ảo thêm.

ĐOÀN THUẬN





*




tranh của Nguyễn Thế Tâm



SẬY DẠI
trước
GIÓ MÙA
________________________________
Đoàn Thuận



   
         Đời tôi luôn chênh vênh giữa ước mơ bình yên và thực tiễn hiểm nghèo. Nhiều người nghi ngại tôi như kẻ gây ra bất hạnh cho đời họ và tìm cách làm tiêu hao sức sống của tôi, đẩy tôi vào góc khuất khép kín cô đơn lặng thầm. Từ trong bóng tối, tôi thắp lên tia sáng, soi tìm sự thật, soi lại chính lòng mình và tự nhắc nhở hãy giữ tâm an với số phận.

        Sau đình chiến 1954, Ba tôi bị tù Côn Đảo nên tôi gặp nhiều trở ngại, khi lên Bà Rịa đi học.  Một số người coi tôi như một tội đồ, và gọi tôi là vẹm con, nặng lời khinh ghét tôi. Từ đó, tôi thu hình sống lủi thủi khép nép, không dám bày tỏ với ai điều gì, ngoài những trang tùy bút đầy cát bụi. Ai nghĩ gì về tôi cũng được, ai hại tôi cũng được, tôi xin phú cho trời đất. Thấy vậy, Tu viện Saint Paul giúp tôi mọi điều kiện để được đi học, trong đó có việc làm lại khai sanh. Trong khai sanh cũ, ba là Nguyễn văn Bản, con Nguyễn văn Thuận sinh 1940. Trong Thế vì Khai sanh mới, cha  là Trần văn Ngự, con là Trần văn Thuận sinh 1943. Do đó, thằng mọi Nguyễn văn Thuận, vẹm con của tù nhân Côn Đảo Nguyễn văn Bản đã mất, chỉ còn cậu học trò Trần văn Thuận lần mò từng bước đến trường, từ tiểu học lên trung học, vào đại học rồi ra đi dạy.

       Năm 1972, tôi được điều động từ Trung học Hà Tiên về trường Trung học Bình Tuy. Mới về, tôi ở chung với Ba Má, trước chùa Quảng Đức. Ba tôi làm thợ hồ, đúc bia mộ, xây sửa nhà cửa, sau khi ra tù. Tại đây, tôi được biết Ba tôi đang bị quản thúc, hàng tháng phải lên đồn cảnh sát Huyện để trình diện, đi xa phải xin phép. Trước đó, gia đình thuê nhà ở đâu, đều có sỹ quan hiến binh hay sỹ quan quân đội ở chung nhà, theo dõi. Tôi cảm thấy có điều gì bất an.         

            Để tranh phiền phức, tôi thuê nhà của thầy Lượng trong làng Thương Phế binh, gần trường Bình Tuy. Nhiều vị công chức và giáo sư trung học ở các dãy nhà trước, nhìn tôi với ánh mắt lạ thường, nên tôi phải ra ngõ sau, đi bộ qua trường. Vào cổng, tôi đến thẳng lớp dạy. Giờ nghỉ, tôi ở lại lớp, chờ chuông reo sang dạy lớp kế tiếp, không xuống phòng giải khát, vì ngại gặp quí giáo sư đạo mạo. Nhờ thế, tôi có dịp tiếp xúc với một số bạn trẻ, trao đổi thêm về những gì còn thiếu sót quanh bài dạy, bài học. Tôi cũng nhận ra đôi điều không có trong sách vở, chỉ có trong ước mơ của người trẻ tuổi. Những đôi mắt thanh xuân, những vầng trán thông minh để lại trong tôi một niềm tin yêu vô bờ.                           .                            
           Tôi dạy ở trung học Bình Tuy chưa tới hai năm học, phụ trách ít lớp, không quen thân với ai trừ thầy Nguyễn Tấn Hưng, cô Trịnh Thị Nghĩa và thầy Đào Văn Lộc, trong nhóm Pascal. Nhưng những bạn trẻ, tôi tiếp xúc qua giờ dạy, là hình ảnh đẹp trên Đất Mẹ La Gi.    .         Tháng Tư năm 1975, sau khi học tập cải tạo tại chỗ, được Ban Quân Quản cấp “Giấy phép làm thợ hồ”. Tiếp theo, qua giấy yêu cầu của ông Vũ Hồng, Ban Quân Quản giao tôi việc tu sửa trường lớp. Tôi lên trường Trung học Bình Tuy trình diện, một cán bộ chỉ tôi những nơi cần tu sửa. Nhờ Ba tôi và chú Tư Dẹo giúp đỡ, tôi và nhóm thợ hồ đã tu sửa những dãy lớp học cũ thành Khu Tập Thể, gần cổng sau trường. Trong thời gian này, người về trường càng ngày càng đông. Môt hôm, khi lên phòng cán bộ ký bàn giao công trình tu sửa, một giáo sư người Bắc di cư, từng ở trọ trong làng Thương Phế Binh, chỉ vào mặt tôi và mắng giờ rộ mặt thằng vẹm. Tôi lặng lẽ từ biệt ngôi trường cũ.                   .                                                

          Mùa hè năm 1975, Bác Sáu Danh cho tôi xem Giấy giới thiệu số 2 của ông Trần văn Bản, trưởng phòng Giáo dục Bình Tuy, giới thiệu tôi vào làm việc ở trường học, và hỏi tôi sao không đi dạy. Tôi chỉ vào căn nhà tôi đang xây, ở gần Chợ Cá Biển La Gi, và nhờ  bác Danh nói với thầy Trần văn Bản, tôi chỉ muốn làm thợ.                        .

              Rồi, Ban Quân Quản gọi tôi đi Học tập đợt 2, ở Đà Lạt. Sau đợt học này, tôi vẫn tiếp tục sử dụng “Giấy phép làm thợ hồ”, theo chú Tư Dẹo đi xây nhà cửa, giúp Ba tôi đúc bia mộ và mua lại nhà ông Huệ ở đầu cầu Tân Lý để tránh những ánh mắt kỳ thị. Phó công an Huyện cho biết ngôi nhà tôi đang ở thuộc diện đi kinh tế mới, và thu hồi “Giấy phép làm thợ hồ”, khuyên tôi nên đi dạy. Tôi đành lên trình diện thầy Hiệu trưởng Lê Đăng Cử và được phân công làm Trưởng ban Lao động.Tôi cũng đành chấp nhận, nếu có ai đó lại mắng tôi giờ rộ mặt.

            Khi Ban kế hoạch 72 đến kiểm tra nhà thầy Trần văn Thịnh, thầy hiệu trưởng Võ Quang Lộc phân công tôi phụ Ban Kế hoạch 72 kiểm tra riêng loại sách tiếng Anh. Tôi cho đó là chuyên bình thường, vì khi vào kiểm tra nhà tôi, Thầy Lộc đã phân công hai giáo viên giỏi tiếng Anh xem xét tất cả sách tiếng nước ngoài. Xuống nhà thầy Thịnh, tôi chỉ nhận đọc vài quyển sách tranh thiếu nhi bằng tiếng Anh và nhận xét “tốt”, rồi tôi về ngay vì thấy thầy Thịnh nhìn tôi với vẻ khó chịu.

            Một tháng sau, Sở giáo dục có công văn đình chỉ công tác chờ kỷ luật tôi với tội danh vi phạm nghiêm trọng kế hoạch 72, căn cứ vào sự tố giác của các tổ trưởng chuyên môn trường C3 Hàm Tân. Vài người nhìn tôi nói thẳng đáng đời, nhưng họ đâu biết tôi tự nghĩ đáng mừng vì đây là dịp tốt để tôi rời khỏi ngành giáo dục. Vào mùng năm Tết, Giám đốc Sở và Trưởng ban Kế hoạch 72, về C3 Hàm Tân rút lại công văn nói trên và khẳng định tôi thực hiện tốt kế hoạch 72 vì đã kiểm tra kỹ nhà tôi. Tôi cảm thấy bất hạnh vì phải ở lại C3 Hàm Tân.                                                                                                                 

         Theo kế hoạch 75, sỹ quan biệt phái không được ở trong biên chế nhà nước. Thầy Trần văn Thịnh, thầy Đoàn Đức, thầy Lê văn Hộ và tôi nằm trong kế hoạch này. Đáng lý ra, tôi bị loại đầu tiên, khi các tổ trưởng chuyên môn C3 Hàm Tân tố tôi với tội vi phạm nghiêm trọng kế hoạch 72. Tiếc thay, đó không phải là sự thật, chỉ là sự vu khống để hãm hại tôi, nên trời đất không chấp nhận. Còn thầy Trần văn Thịnh, rất may mắn, vì thầy có đủ điều kiện, tự quyết định bỏ trường bỏ ngành về làm vườn, sống ung dung hạnh phúc, tránh được bao rắc rối sau này.

          Ngược lại, thầy Đoàn Đức sanh con thứ năm, rất nhiều người biết.  Trường C3 lấy sự thật ấy làm cớ để kỷ luật, đưa Thầy ra khỏi ngành, theo đúng kế hoạch 75, không phải do ai đó tố cáo. Sau vụ thầy Đoàn Đức ra khỏi ngành, một số người đổ lỗi cho tôi, thậm chí vài người mắng tôi nặng lời. Tôi im lặng, chỉ biết xin trời đất phán xét.                           
          Năm 1982, một nhóm giáo viên tố Thầy Hiệu trưởng tham nhũng. Chi bộ, Công đoàn C3 Hàm Tân và Tổ chức Sở Giáo dục, họp để kết tội thầy Đào văn Lộc và tôi là đảng dân chủ nổi dậy. Tôi không ký biên bản kết luận, và đề nghị Sở Công An làm sáng tỏ. Một tuần sau, Sở Công An trả lời vụ việc không liên quan gì đến đảng dân chủ. Thầy Đào văn Lộc về làm hiệu trưởng trường Nhà Bè. Người thay hai chúng tôi là Ông Nguyễn Phi Thảo và Phan văn Bảng. Tôi làm đơn xin ra khỏi ngành. Ủy Ban Tỉnh yêu cầu tôi ở lại giảng dạy,chờ giải quyết.                                                                   

           Cuối năm 1993, báo Bình Thuận đăng một bài thơ trong đó có câu Đã mấy năm xa Sài Gòn ơi và  khép tôi vào tội mơ tưởng đến Sài Gòn, thủ đô chế độ Mỹ Ngụy. Phòng Văn hóa Thông tin và Công An huyện Hàm Tân, nhiều lần, gọi tôi đến làm bản kiểm điểm về tội nói trên.Tôi không rõ chuyện gì và khai đi khai lại Tôi viết mấy câu đó trước 1975. Sau đó, một đảng viên ở báo Tuổi Trẻ về tỉnh Bình Thuận trình một trang lưu bút viết tay, có câu thơ nói trên, ký tên Trần Thuận vào 1972. Sài Gòn 1972 là Sài Gòn. Tất cả lặng thinh. Tôi rời khỏi trường C3 Hàm Tân từ đây và chưa bao giờ trở lại, dù đôi lần tôi đi dọc ngoài tường rêu.  

          Mùa hè năm 1994, Ủy Ban tỉnh Bình Thuận không cho phép tôi nghỉ việc, rời khỏi ngành giáo dục và điều động tôi đi xây dựng ngôi Trường chuẩn Quốc gia tại khu trường Sư phạm Mầm Non cũ. Khi tôi tiếp nhận mặt bằng chuẩn bị thiết kế ngôi trường, Tỉnh yêu cầu tôi sửa gấp hai dãy nhà để khai giảng trường Bán công Nguyễn Huệ. Tôi ở lại khu đất cũ, để tiếp tục thiết kế ngôi trường mới và điều hành trường Bán công Nguyễn Huệ, theo Quyết định của Tỉnh.                                   

             Tại đây,tôi rất buồn vì ai đó vu khống tôi nhiều điều khủng khiếp.Nhờ trời, mọi việc được sáng tỏ và tôi vẫn an nhiên với số phận mình.                                                                                             
          Năm 2003, từ biệt trường Nguyễn Huệ, tôi về hưu.

         Năm 2004, tôi bán nhà lấy tiền tu sửa, xây kiên cố hầu hết mồ mả Ông Bà Cha Mẹ Ba Má, vào tá túc nhà con trai Út tại Thảo Điền. Cuối đời,tôi lại xa quê Mẹ,lưu lạc nơi xứ người.

       * Tôi thầm nghĩ, tôi như cây sậy trước hai mùa gió, Gió Bấc và Gió Nồm. Gió Nồm thổi qua, gió Bấc thổi lại, khiến Sậy rạp xuống cỏ non. Có khi loài thú núp theo gió mùa, gặm sậy gần tàn tạ, nhưng sậy vẫn bám đất, ngẩng lên trời, làm bạn cùng muôn hoa, yên nhiên trước cát bụi.

               Thảo Điền, 2012


















TÔI ĐI DẠY

trước 1975.
________________________
                       Tg. Đoàn Thuận
                             .


 

          Trong thập niên 60, tôi chỉ là một sinh viên nghèo xa quê nên buộc phải đi kèm trẻ tư gia hoặc luyện thi tú tài để có điều kiện đi học. Dù nhiều lúc đối diện với người học nhưng tôi không dám mơ sẽ làm người đi dạy.          .                      .                                                             
           Năm 1962, Giáo sư NĐT giới thiệu tôi đến dạy một trường tư. Tôi không dám nhận vì nhiều lẽ. Ba tháng sau, Giáo sư đưa cho tôi Giấy phép của Nha Tư Thục và khuyên tôi nên theo ngành giáo dục.Tôi ngần ngại đến trường Thánh Tâm nhận lịch giảng dạy. Lần đầu tiên đứng trên bục giảng, tôi say sưa giảng văn bài Thu Điếu của Nguyễn Khuyến. Đến khi chuông reo, cả lớp đứng dậy trong dáng vẻ ngỡ ngàng kỳ lạ. Tôi rầu rĩ ra về. Nhưng tuần sau tôi nhận tiếp lịch giảng dạy tại Trung học tư thục Thánh Mẫu và tư thục Thủ Khoa Huân.               


           Năm 1966, Giáo sư lại khuyên tôi thi vào Đại học Sư phạm Sài Gòn vì khóa mới chỉ tuyển ngưới có chứng chỉ đại học, không tuyển người có tú tài và chỉ học trong ba năm. Tại Đại học Sư phạm, tôi có dịp tiếp cận với nguyên lý giáo dục Nhân bản, Dân tộc,  Khai phóng.  Người dạy không thuần cung cấp kiến thức căn bản cho người học mà còn giúp người học tự đào luyện thành ngưới có Đức có Tài giúp ích cho xã hội, cho tổ quốc.           .  .                            
           Năm 1969, tôi tốt nghiệp với ngạch Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp (lớp đệ tam, đệ nhị, đệ nhất) và nhiệm sở đầu tiên là Trung học công lập Hà Tiên.                        
.       
       Năm 1972, tôi thuyên chuyển về dạy Anh văn tại Trung học Bình Tuy. Tại đây, tôi chỉ dạy đủ giờ qui định, thời gian còn lại tôi dạy thêm ở Trung học tư thục Vinh Tân, Tư thục Bồ Đề Quảng Đức và Cours Pascal.

       Dù ở nơi nào, theo thói quen, tôi sống khép kín, không dám tham gia một tổ chức hay một nhóm hội nào. Tôi tự nghĩ sự có mặt của tôi sẽ gây phiền phức khó chịu cho người khác. Thông thường tôi đến trường đến lớp rồi về tìm vui qua sách vở, qua tiếng đàn, đôi khi cùng cỏ cây

         Được đi dạy, được tiếp xúc với bạn trẻ của quê hương là niềm hạnh phúc đối với tôi. Tôi tự nguyện sẽ làm tròn phận sự của mình, để không phụ lòng mong mỏi của quí tiền bối.  Chính nhờ sự dạy bảo của Thầy Cô, nhờ lời khuyến khích của Giáo sư NĐT,tôi mới có ngày chính thức cầm phấn đứng trước bảng viết.    .                                              
         
Nay, lại đi dạy tại quê nhà, tôi rất mừng. Gia đình nhỏ của chúng tôi sống êm ấm trong căn nhà thuê gần trường, gần Mẹ, gần Ba Má.  Cũng tại đây, tôi gặp lại hai người bạn chăn trâu thời niên thiếu. Trong lặng thầm, tôi nhận ra chúng tôi như anh em một nhà. Nhiều dịp chúng tôi tìm thăm những nơi ông bà cha mẹ chúng tôi đã trải qua, trong tháng ngày kháng chiến. Quê hương tôi rất đẹp. Nhiều thôn mạc còn mái tranh vách lá nhưng đong đầy nghĩa xóm tình làng. Đó là khung trời đẹp nhất trong đời tôi.                          .                             

      Thế rồi từ tháng 1 năm 1975, Trung học Bình Tuy gần như đóng cửa, vì chiến sự diễn ra dồn dập ở Miền Trung và Cao Nguyên.       .         .      .
      Những ngày đi dạy của tôi dừng lại ở đây.     

         Thảo Điền, 2014
         ĐOÀN THUẬN





ĐI DẠY

Ra trường đi dạy trong lặng thinh.
Giã từ đèn sách thời thư sinh.
Xuôi về Miền Tây nhận nhiệm sở.
Xa quê, tự lắng tiếng lòng mình.

Vào đời, tôi nguyện cùng cộng đồng.
Học hành tu tập đạo cha ông.
Nhân Bản Dân Tộc và Khai Phóng,
Từ nền văn hiến dòng Lạc Hồng.

Ngẫm tôi như sậy trước gió sương.
Thân phận mỏng manh lắm đoạn trường.
Dăm con sâu dữ luôn rình rập.
Đôi đóa hoa xinh dịu dàng hương.

Thế thời lùi lại trong bóng đêm.
Nhìn ra ánh sáng soi ngoài thềm.
Dò dẫm tìm về chân thiện mỹ.
Tự dưỡng tâm an, trí tỉnh êm.

Sai Gòn,1969




ĐẾN HÁ TIÊN DẠY HỌC

Ra trường, tôi chuyển đến Hà Tiên.
Cuối trời đất nước biệt một miền.
Kiên Lương Rạch Giá, vùng oanh kích.
Lênh đênh kênh rạch một đêm thuyền.

Hai chiếc va li một cây đàn,
Đôi ba quyển sách làm hành trang.
La Gi quê mẹ xa ngàn dặm.
Châu thổ sông dài trời mênh mang.

Đất nước chiến tranh lắm đoạn trường.
Tôi vì cơm áo lại tha phương.
Những mong gửi gắm lòng thương nước
vào đàn em nhỏ của quê hương.

Cứ ngỡ tôi như một đồ già,

bụi đường mưa gió tóc sương pha,
bút nghiên khăn gói dăm ba chữ,
về ngồi dạy trẻ miệt vườn xa.
Hà Tiên,1970
CÁT SỸ
 
 
 
 

ĐẾN TRUNG HỌC HÀ TIÊN.

Con đường Tô Châu rợp bóng dương.
Bờ dậu cây xanh lẫn quỳnh hương,
Đàn chim se sẻ trên mái ngói,
như đưa tôi đến một sân trường.

Cổng vào dưới tán cây phượng già.
Cuối hạ còn vương đôi đóa hoa,
đong đưa cuối nhành lá non biếc.
Làm nhớ trường xưa nơi quê nhà.

Quanh sân huệ trắng từng khóm dài,
như lặng yên nghe tiếng giảng bài
tiếng rơi bụi phấn bên bảng viết.
Lời văn âm lạc ra hiên ngoài.

Thư sinh áo trắng chăm học hành.
Nghiêng trên sách vở mái đầu xanh.
Ghi nhớ bao điều được giảng dạy.
Lặng tĩnh trầm tư về mộng lành.

Trung học Hà Tiên, tôi đến đây,
trong tình thân thiện của cô thầy,
với dòng văn chương Chiêu Anh Các
Hà Tiên Thập Cảnh thơ mộng này.

Hà tiên, 1970
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]
 
 
 

Ở HÀ TIÊN NHỚ LA GI

Bồng bềnh mây qua đảo nhỏ.
Tháng giếng nước biếc chân trời.
Cánh chim mờ vào xa khuất.
Để ta đứng giữa chiều rơi.

La Gi xa ngàn dặm lí.
Cuối nơi mây trắng bay về.
Ngút mắt ngóng tìm làng cũ.
Chìm trong khói sóng chiều quê.

La Gi trong ngàn nỗi nhớ.
Hiu hiu gió bấc se lòng.
Tình quê lắng nhiều đêm thức.
Đò chiều nhớ một dòng sông.

Bao chiều chưa về biển cũ.
Hà Tiên những lúc mưa qua.
Rì rào bên Hồ Đông lặng.
Tuởng đêm sóng vỗ quê nhà.

Bao chiều điếng lòng vì nhớ.
Chìm trong tít tắp ngàn dâu.
Chìm trong một vùng biêng biếc.
Nghe như biển cũng buồn rầu.

Hà tiên , 1970
CÁT SỸ


 


Về
TRUNG HỌC BÌNH TUY


Năm bảy mươi hai có một thầy.
Hà Tiên nhiệm sở chuyển về đây.
Trường tư Quảng Đức kèm Cours tối.
Công lập Bình Tuy dạy lớp ngày.
Giữa chợ bon chen đều chẳng biết.
Ngoài đời khôn dại cũng không hay.
Ăn lương chính ngạch, ở nhà mướn.
Sách vở bút nghiên có đủ đầy.

Bính Tuy, 1972
CÁT SỸ




VỀ LA GI DẠY HỌC

Xa Mẹ từ nhỏ, sống tha phương.
Đi học đi dạy tại nhiều trường.
Từ giã Hà Tiên về quê cũ.
Thầm lặng buồn vui ngày hồi hương.

Bao mùa lưu lạc sầu lê thê,
ước momg Đất Tổ được quay về,
dù ở làng chài hay xóm ruộng,
dù phải đối diện với não nề.

Ngày tôi thuyên chuyển về La Gi
Dạy Trường Công lập tỉnh Bình Tuy,
Trường tư Vinh Tân, Trường Quảng Đức.
Gặp lại bao người từng chia ly.

Đất xưa hội ngộ nhóm Tứ La,
thân hữu chăn trâu thời tuổi hoa,
cùng nhau tìm hiểu về nguồn cội
Huyền thoại Dinh Ông với Đảo Bà.

Về bên ba má bên mẹ già,
thân bằng quyến thuộc nơi quê nhà,
cùng gia đình nhỏ sống êm ấm,
Giấc mơ thơ dại như nở hoa.

La Gi, 1973





TRƯỜNG TRUNG HỌC BÌNH TUY
.
Bao mùa lưu lạc chia ly,
tôi về Trung học Bình Tuy quê nhà.
Hàng dương liễu biếc thướt tha.
Đôi nhành phượng vĩ đỏ hoa học đường

Ngỡ như hương cũ còn vương.
Trường làng mái ngói, nền tường đá xanh.
Nhớ xưa mơ được học hành.
Nay cùng đồng nghiệp đồng hành đồng song.

Tha phương khốn khó long đong,
hồi hương sống lại thuở hồng hoa niên.
Thư sinh áo trắng hồn nhiên
giúp tôi ôn chuyện bút nghiên một thời.

Bao trang vở chép mộng đời
Đôi dòng phấn trắng kể lời tổ tông.
Với nền giáo dục Cộng đồng,
Nhân bản Dân tộc Lạc Hồng nghìn năm.

Bình Tuy trung học lặng thầm
đã từng gieo hạt ươm mầm trong tôi.

Bình Tuy, 1972
CÁT SỸ

 


 

TRƯỜNG LA DẠ 


Dưới mái Trường La Dạ,
bạn đồng song, đồng hành, 
ghi lưu bút ngày xanh
khi hạ tàn tạm biệt.

Một lần nhớ mải miết,
dù tùy bút không dài,
dù màu mực dần phai,
vẫn còn trang ký ức.

Vẫn nằm trong tâm thức,
của người đã xa trường,
đã phiêu bạt tha hương,
lưu dấu bao kỷ niệm.

Khoảnh khắc chân trời tím,
tưởng nhớ về dáng hoa,
hiền dịu trong chiều tà,
trên sân trường Xóm Núi.

Tiếng chim rừng bên suối,
hòa âm lời giảng bài,
theo gió rừng thu phai,
một thời Trường La Dạ.


La Dạ, 1964
CÁT SỸ




Ở TAM TÂN

nhớ HÀ TIÊN

Hà Tiên xa, một bờ kỷ niệm.
Sóng vô cùng vỗ suốt đêm thâu.
Lời ai hát từng mùa bấc thổi.
Cồn đá buồn lau trắng bãi dâu.

Những dòng kênh qua đồng châu thổ.
Dặm đường dài lòng ta ngổn ngang.
Đâu có biết ra đi xa hút.
Để từng chiều úa cỏ quan san.

Tam Tân, 1973
CÁT SỸ
Đoàn Thuận




BUỔI SÁNG ĐẾN LỚP


Đi bên em trên đường đến lớp
Áo trắng lay trong gió đầu ngày
Làm nhớ lắm về thời cắp sách
Cuối phố chờ nhau buổi học dài

Ánh nắng nhuộm vàng trên mái tóc
Ngỡ như lòng lắng một hương hoa
Hương của tóc qua môi dịu ngọt
Của lá thư buồn vui xưa xa.

Cùng bên nhau sớm mai đến lớp

Mà nghĩ đời nhiều nỗi mong manh
Trang bài soạn gửi niềm mong ước
Dân được ấm no, trẻ được học hành.

Làm cô giáo giờ em gầy lắm

Tóc của anh cũng đã điểm sương
Đời mưa nắng có nhau bên cạnh
Đi mãi về sau một con đường.
Tân An, 1980
CÁT SỸ



TIẾNG HOA RƠI

Bất chợt mùa về ngang thành phố.
Sân trường áo trắng hồn nhiên vui.
Riêng em áo cũ, màu phượng đỏ,
vẫn mắt nai hiền thoáng xa xôi.

Vẫn tóc thơm quen, hương dịu cúc.
Kỷ niệm mùa đi chìm theo lời.
Bàn tay thon nhỏ, trong tay phấn,
chạm xuống hồn ta tiếng hoa rơi.

Lối trúc hiên rêu nhẹ gót hài.
Dấu mùa sắc cỏ bóng chiều phai.
Tưởng đâu người cũ vời xa mãi.
Giờ lại cùng nhau “nối gót Thầy”.


CÁT SỸ




HẠ TÀN
tặng Võ Ngọc Sơn


Phố ngoài, đường phượng chia đôi.
Sân rêu lớp cũ để rơi giọt chiều.
Những trang sách đã cô liêu.
Chợt nghe trong trúc hiu hiu hạ tàn.

Chưa qua, chiều đã trăng vàng
Sương giăng mờ những dặm ngàn thôn xa.
Thời gian đi qua đi qua.
Rụng rơi từng cánh phượng và tuổi xuâ
n.





HẠ CUỐI


Khi ngày hạ đã cuối mùa.
Đường về xóm học chợt thưa bóng người.
Ánh đèn trọ tắt đêm vui.
Mấy khung cửa khép, tiếng cười lặng yên.


Hoa tàn hoa nở một miền.
Ai quên ai nhớ bao phiền muộn kia.
Bờ vui bến lạ đã chia.
Người về xa khuất, người khuya khoắt buồn

                                                   

La Gi, 1975
.



KHÔNG LỜI

Trường xưa đổi hiệu thay đời.
Bảng đen phấn trắng không lời biệt ly.
Bút nghiên một thuở xuân thì
Nay như bụi phủ đóa quì tàn phai.

La Gi, 1975
CÁT SỸ


BÓNG ÁO DÀI

Nữ sinh cặp sách áo dài
Vì đâu khuất bóng đường ngoài trường xưa ?
Nhớ thời đi học sớm trưa.
Áo em trắng lắng hương thừa tóc mây.


La Gi, 1975
.




SÂN TRƯỜNG
 
và 
TÔI

Một bông giấy trắng
nghiêng sân nắng vàng
xuân đâu trở lại
như giọt sương tan.

Trang thư mực tím
ngang thềm rêu xanh
chạm chiều thu biếc
sắc màu mong manh.

Một ngôi trường nhỏ
đổ bóng hồn ta
người đi xa mãi
mùa về rơi hoa.

ĐOÀN THUẬN



*




Trường THPT Nguyễn Huệ



TÔI LAO ĐỘNG,
sau 1975.
_______________________
Tg. Đoàn Thuận


 

           Từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1975, trường trung học Bình Tuy gần như đóng cửa vì chiến sự Miền Trung.Phố huyện bất ổn,nhiều người tìm cách di cư,di tản.Tôi trả nhà thuê lại cho thầy Lượng chuyển về ở chung với ba má tôi tại thị trấn La Gi.                       .                                                                   
           Khi bộ đội về giải phóng Bình Tuy, tôi đến Ban Quân Quản trình diện và học tập cải tạo tại chỗ. Học xong, tôi được trả quyền công dân, được cấp Giấy phép làm thợ hồ, theo nghề của Ba tôi, vì giáo viên Ngụy không được vào biên chế, chỉ được đi lao động, đi kinh tế mới, hoăc tiếp tục học tập cải tạo. Thấy vậy, Ba tôi giao tôi công việc đúc bia mộ tại nhà.                   

 

           Tiếp theo, Ban Quân Quản giao tôi tu sửa trường lớp ở Trung học Bình Tuy cũ.Tôi lên trường nhận việc. Nhóm thợ hồ chúng tôi nhận tu sửa dãy phòng học cũ làm khu Tập thể gần cổng sau, và xây mới bếp ăn cùng bốn nhà vệ sinh. Khi xong việc, tôi đến trình Bác Kích, bác bảo vệ trường. Bác nói với tôi trước cầm phấn, giờ cầm bay. Như vậy, từ đây tôi không còn đi dạy nữa, dù đã dạy học ở  quê nhà La Gi gần hai năm. Tôi úp bàn tay phải lên trụ cổng sau và từ giã trường Trung học Bình Tuy.                        .                               .       

          Sau đó tôi nhận giấy đi học tập cải tạo đợt 2 ở Đà Lạt và được xếp loại giáo viên lưu dung, nhưng vì tôi có Giấy phép làm thợ hồ nên không muốn ở lại làm giáo viên và quyết định theo ngành xây dựng. Thực tế, tôi đã phụ hồ cho ba tôi xây dựng nhà cửa trong vùng từ lúc trường Bình Tuy ngưng hoạt động. Nhiều người khuyên tôi ở lại ngành giáo dục, trong số đó có cán bộ cao cấp tập kết ra Bắc nay trở về, biết rõ Ba tôi. Để tránh phiền phức, tôi xin phép ra riêng, rồi mua căn nhà của ông Huệ, gần cầu Tân Lý, để tiện làm thợ hồ. Đêm tôi đúc bia mộ theo đơn đặt hàng, ngày tôi theo chú Tư Dẹo xây nhà ở Bến Cá La Gi. Hơn nữa, sau nhà có đám đất khá rộng, vợ tôi trồng rau muống hột, nên lương thực hàng ngày tạm đủ.         .

          Tôi làm thợ hồ được vài tuần, Ban Quân Quản cho biết nhà tôi đang ở nằm trong diện đi kinh tế mới và thu hồi “Giấy phép làm thợ hồ”, buộc tôi lên trường cũ làm việc theo giấy Giới thiệu số 2 của trưởng Phòng Giáo dục Trần văn Bản. Tôi đành lên trường trình diện Hiệu trưởng Lê Đăng Cử.

         Trường được thay tên bằng Trường Cấp 3 Hàm Tân. Tôi bước vào bên trong đất cũ nền xưa của Trung học Bình Tuy, chỉ thấy người xa kẻ lạ dép râu nón cối, áo ngắn quần túm, khuất bóng áo dài. Tôi như lạc giữa khung cảnh cách mạng, ai cũng thuộc giai cấp vô sản, chỉ riêng tôi sặc mùi tư sản, với sơ-mi trắng đóng thùng, đồng hồ Rolex. Tôi định bỏ về, bất ngờ, một cán bộ lôi tôi vào phòng hiệu trưởng. Thì ra người ấy là thầy Lê Đăng Cử. Thầy Cử dường như biết nguyên nhân khiến tôi không muốn đi dạy, và biết cả chuyện Ủy Ban tỉnh Thuận Hải điều tôi về giúp Thầy ổn định trường lớp, để kịp khai giảng năm học mới. Trước sự chân tình ấy, tôi chấp nhận ở lại giúp việc theo sự chỉ đạo của Thầy. Thầy trao quyết định phân công tôi làm Trưởng ban Lao động.Tôi chuyển nhà lên khu tập thể, nơi tôi đã tu sửa, trước đó.                                       

 

          Đầu tiên, tôi dẫn học sinh toàn trường đi trồng bo bo ở Tân Hà, trồng mì ở Tân Hải, trồng lang ở Sơn Mỹ, đào mương dẫn thủy nhập điền từ đập Đá Dựng vào đồng Tân Thiện, đào ao cá Bác Hồ, và một số công trình lao động khác. Về sau, chỉ còn lo về cơ sở vật chất và vệ sinh trường lớp, nên tôi được giao dạy một số tiết tiếng Anh.                      .                                                                            
        Khi trường tương đối ổn định, giáo viên càng ngày càng đông, cô Trịnh thị Nghĩa và tôi bị tố vượt biên hụt. Nhưng Tổ chức Huyện khẳng định từ cuối 1974 đến tháng Tư năm 1975, tôi chỉ ở trong nhà Ba tôi, không đi đâu. Cô Nghĩa ra khỏi ngành. Thầy Cử chuyển về Hòa Đa. Với thân phận giáo chức Ngụy dạy tiếng đế quốc Mỹ, tôi chấp nhận mọi hoàn cảnh, miễn được làm việc kiếm sống qua ngày, trên quê Mẹ tôi.               

           Trong thời bao cấp, gia đình chúng tôi sống nhờ vào công việc phụ hơn là đồng lương giáo viên lưu dung. Vợ tôi vừa dạy tiểu học, vừa nhận gia công hàng mỹ nghệ. Còn tôi ban ngày ra trường lao động, đêm về đúc bia mộ tại nhà. Nhiều phụ huynh bảo tôi trước làm thầy giờ làm bia. Tuy vậy, tôi vẫn thấy may mắn hơn nhiều người vì được lưu dung ở lại làm việc, dù cầm bay trộn hồ nhiều hơn cầm phấn viết chữ, dù không còn sống thư thả như ngày cũ, dù đời còn nhiều nghiệt ngã gập ghềnh.

              Từ ngày làm Phó hiệu trưởng,nhất là sau khi tốt nghiệp Trường Cán bộ Quản lý,tôi thường gặp nhiều rắc rối, đã nhiều lần tôi xin phép ra khỏi ngành,nhưng Ủy Ban Tỉnh vẫn ép tôi ở lại làm việc dưới mái trường, hơn ra ngoài làm thợ.                      .                 Năm 1982, tôi bị Sở Giáo dục đình chỉ công tác chờ kỷ luật vì bị buộc tội vi phạm nghiêm trọng kế hoạch 72. Tôi thầm nghĩ đây là dịp may để tôi thoát khỏi ngành giáo dục.Sau tết,Tỉnh về thu hồi quyết định nói trên vì Sở Công an có biên bản khám xét kỹ nhà tôi nhiều lần nhưng không tìm thấy sách báo đồi trụy như trường tố cáo.Cũng trong dịp này tổ chức cho biết Tỉnh rất rõ lý lịch gia đình tôi và khuyên tôi yên tâm làm việc.         .                  .            
            
Tiếp theo, tôi bị vu khống đảng dân chủ nổi dậy, nhân vụ một nhóm giáo viên tố thầy hiệu trưởng tham nhũng. Sau đó, thanh tra khẳng định tôi không liên quan gì đến đảng dân chủ. Khi thầy Lộc về làm hiệu trưởng trường Nhà Bè ở thành phố HCM, tôi xin làm giáo viên thường vì lúc ấy tôi đang tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi ở Tỉnh. Người thay thế chúng tôi là ông Nguyễn Phi Thảo và Phan văn Bảng. .

             Năm 1993, báo Bình Thuận kết tôi tội “nhớ Sài Gòn thủ đô Ngụy”, căn cứ vào câu thơ: Đã mấy mấy năm xa Sài Gòn ơi… Tôi lại bị đình chỉ công tác, buộc qua phòng Văn hóa và Công an Huyện Hàm Tân làm kiểm điểm nhiều lần. Hai tháng sau, một đảng viên ở báo Tuổi Trẻ về Tỉnh trình một trang nhật ký, trong đó, có chữ viết tay mấy câu trên và ghi rõ “Hà Tiên 1972”. Ai ai cũng biết năm 1972, Sài Gòn là Sài Gòn. Tôi vô tội và lặng thinh sống qua ngày theo cách một giáo viên lưu dung.

            Năm 1994, thầy Lê văn Hộ có quyết định làm giám đốc Trung tâm Dạy nghề Hàm Tân. Chưa kịp tiếp nhận nhiệm sở mới, thầy Hộ bị tai nạn và đã qua đời nhân vụ làm phiên dịch cho đoàn Kiểm tra trên biển Hàm Tân. Người thay thầy Hộ là ông Võ văn Nhân, một đảng viên cũng là học trò cũ trường Bình Tuy thời Ngụy. Như vậy, bốn giáo viên Ngụy chỉ còn lại mình tôi và tôi làm đơn xin phép ra khỏi ngành giáo dục.                  .               
         Cùng năm, Tỉnh không cho phép tôi rời khỏi ngành, lại điều tôi đi xây dựng Trường chuẩn Quốc gia trong khu vực Trường Sư Phạm Mầm Non cũ. Tôi  kiên quyết không nhận vì nghi ngại đôi điều và tôi tự bỏ ngành, từ biệt C3 Hàm Tân, ra làm thợ hồ.                            

            Ngay sau đó, Tỉnh về hợp triển khai kế hoạch mở trường Bán công và yêu cầu tôi tham dự. Trong phiên họp này, Tỉnh nêu nguyên nhân, ba năm trôi qua, mà Huyện vẫn chưa mở được trường bán công, dù Sở đã bổ nhiệm một đảng viên ở C3 Hàm Tân làm hiệu trưởng bán công. Vì vậy, Tỉnh quyết định bằng mọi cách phải mở cho được trường bán công trong năm học 1994-1995. Phó chủ tịch Tỉnh chất vấn tôi vì sao bỏ ngành, vì sao từ chối quyết định điều động của Tỉnh. Tôi thật lòng trả lời không an tâm để làm thầy, chỉ có thể lao động chân tay, ở thời buổi này. Thầy Nguyễn Hiền, trưởng phòng giáo dục Hàm Tân cho biết, thời này học sinh không vào được trường công rất đông và khuyên tôi ở lại ngành. Nhiều người cũng khuyên tôi như thế. Tôi thầm nghĩ rất nhiều về người trẻ tuổi ở quê tôi không được đến trường, nên tôi quyết định chấp nhận sự điều động đi xây dựng Trường chuẩn Quốc Gia. Theo đó, Tỉnh yêu cầu tôi sửa gấp hai dãy nhà của Trường Sư phạm Mầm Non cũ, để kịp mở tạm một trường Bán công. Tôi gặp rất nhiều khó khăn nhưng trường Trung học Bán công Nguyễn Huệ vẫn khai giảng năm học đầu tiên đúng kế hoạch Tỉnh  giao.                         

 

          Năm 1999, trường Nguyễn Huệ phát triển từ 4 lớp lên 44 lớp và đang tiến hành xây dựng phần còn lại. Tôi lại bị vu khống nhiều tội khủng khiếp, trong đó có tội tôi nhận những giáo viên ngoài biên chế. Tiếp theo, Sở Công an và Sở Tài chánh Bình Thuận về kiểm tra gần như suốt năm 2000, dù quyết định chỉ cho phép kiểm tra trong 30 ngày. Ngoài đình chỉ công trình đang xây dựng dở dang, công an đi điều tra thẩm vấn nhiều người ở nhiều nơi liên quan đến cá nhân tôi, vẫn quanh quẩn mấy việc vu khống từ 1982, mà Tỉnh đã từng làm sáng tỏ.                          . 
       
          Cuối cùng Tỉnh ra thông báo kết quả đợt kiểm tra toàn diện Trường Nguyễn Huệ và khẳng định trường không sai phạm điều gì đồng thời công nhận thành quả đóng góp của tôi cho ngành giáo dục.Từ cuộc kiểm tra này,Tỉnh mới biết lương của tôi rất thấp và Tỉnh nâng lên bậc chuyên viên loại một chuẩn bị cho tôi nghỉ hưu. Tôi bàn giao mọi việc cho ông Nguyễn Phi Thảo, từ biệt trường Nguyễn Huệ.

           Tôi là một du tử, một đứa con xa Mẹ, sống lưu lạc từ bé thơ, nên năm 1972 về lại quê nhà dạy học gần Mẹ, đối với tôi là niềm hạnh phúc. Sau 1975, tôi chỉ mong được lao động kiếm sống qua ngày nơi quê hương, nhưng rồi phải luôn đối diện với biết bao khốn khó bất an. Thế nên, tôi bán nhà lấy tiền tu sửa gần như toàn bộ mồ mả của ông bà cha mẹ, họ hàng nội ngoại, rồi chuyển vào Thảo Điền sống những ngày cuối đời. .                               

           Thảo Điền, 2019. 
        ĐOÀN THUẬN

 

TRĂNG TRÊN GIÁO ÁN


1.
Một mảnh trăng treo ngoài song cửa.
Yên ả không gian ngát hương đêm.
Trăng thanh bình tỏa trang giáo án.
Trăng với thơ xưa gợi nỗi niềm.

2.
Có phải ánh trăng ngoài ngục tối.
Len qua khe cửa ngắm nhà thơ.
Hồn thơ như gởi theo trăng sáng.
Lan tỏa muôn phương trời tự do.

Có phải ánh trăng trên sóng nước.
Sáng một dòng xuân một trời xuân.
Nhà thơ vẫn thức bàn việc nước.
Nghĩ đến muôn dân giữa thuyền trăng.

Có phải ánh trăng trên đồi núi
đã vào cửa sổ để đòi thơ ?
Nhà thơ khuya ấy đâu hờ hững.
Nhưng chuyện non sông đang đợi chờ.

Có phải ánh trăng đêm rừng vắng
lắng tiếng suối trong, bóng lồng hoa ?
Nhà thơ chưa ngủ đêm khuya khoắt
vì nỗi lo chung, nỗi nước nhà.

Biết bao đêm nữa người không ngủ.
Suốt những canh thâu đợi ánh ngày.
Năm châu bốn biển, đầu điểm bạc
vì nước thương dân, lo ngày mai.

3.
Trăng xưa hạc cũ vẫn còn đây.
Đất nước yên vui với xuân này.
Đêm nay lòng tưởng Người thanh thản
viết tiếp trang thơ ánh trăng đầy.


       
Trường Dục Thanh, 1975


 
SÂN TRƯỜNG MÙA HẠ

Người về Xóm Học đã thưa.
Những trang vở khép vào xưa cũ dần.
Hàng dương liễu đứng bâng khuâng.
Tiễn mùa sang hạ, mưa ngần ngại bay


Bước chân gõ guốc phố này,
Áo em trắng những tháng ngày thư sinh.
Sân trường giờ lại vắng thinh.
Thềm ngoài lớp học, rêu in sắc chiều.
Thuyền xa, bờ chợt cô liêu,
Đàn chim bay khuất, quạnh hiu núi đồi.
Nghỉ hè, em lại xa xôi,
Mình ta giữa cõi muôn lời cổ thi.

Lá thu xanh gọi mùa đi,
Ngoài ô cửa lớp mùa thi qua rồi.
Đường về Xóm Học chia đôi.
Vắng em bụi phủ chỗ ngồi lặng yên.

Những chiều ru gió sau hiên,
Tưởng em ngồi học một miền quê xa.
Mong ngày hạ trắng mau qua,
Em về bước nhỏ lối hoa mộng này.

Lagi 2003
ĐOÀN THUẬN




BÊN CỔNG TRƯỜNG CŨ

Tôi về trường cũ một lần.
Dưới mưa trước cổng ngại ngần hỏi thăm.

Nghe người bảo vệ lầm bầm.
”Ông nào lạ lẫm xa xăm đến trường”.
Tôi như kẻ lạ lạc đường.
Dừng chân bên cột vách tường đụt mưa.

Thầy cô đồng nghiệp bạn xưa.
Sân trường bụi phấn mấy mùa luân lưu.
Ai còn dạy, ai về hưu.
Yên vui, bất hạnh, thực hư thế nào ?

Đàn em cắp sách ngày nao.
Người đi kẻ ở ra sao giữa đời ?
Trước bao hoàn cảnh đổi dời,
Thầm mong người cũ một thời bình an.

Giã từ đất mẹ trường làng.
Cuối đời tôi lại lang thang xứ người

Đoàn Thuận

 


TƯỞNG NHỚ
TRƯỜNG XƯA

Cuối đời vẫn nhớ trường xưa,
Dù bao sương gió nắng mưa dập vùi.
Trong tôi thầm lặng ngậm ngùi.
Thầy Cô còn mất ngược xuôi thế nào.
Bao điều giảng dạy ngày nao,
như lời khuyên nhủ ngọt ngào khó quên,
giúp tôi từng bước vững bền,
vượt qua tăm tối gập ghềnh xót xa.

Nguyên lý giáo dục quốc gia.
”Nhân bản Dân tộc” luận ra ngọn nguồn.
Tầm nhìn “khai phóng” muôn phương.
Nhân văn khoa học lưu hương cõi người.

Học Văn một, Học Lễ mười.
Tình làng nghĩa xóm xây tươi “vườn đời”.
Người học chữ nghĩa đạo trời
nhận ra tiếng nói xu thời điêu ngoa.

Nền giáo dục một thời qua,
tạo người Nhân Đức,Tài hoa cho đời.

Thảo Điền, 2014
ĐOÀN THUẬN




NHỚ THẦY CÔ XƯA.


Giã từ lớp cũ trường xưa.
Thầy cô phiêu bạt nắng mưa bên trời.
Bút nghiên bụi phấn không lời.
Nhìn bao bạn trẻ xa rời cố hương.

Lương sư dưới bóng bụi đường.
Lời nguyền hưng quốc đoạn trường bể dâu.
Hoang tàn bao lối bích câu.
Thư sinh áo vải cúi đầu biệt ly.

Tình xưa nghĩa cũ thầm thì.
Nhân văn “nhân bản” đạo nghì phôi pha.
Cội nguồn “dân tộc” nhạt nhòa.
Tầm nhìn “khai phóng” sương sa che mờ.

Lương dân khốn khó bơ vơ.
Lang thang đau xót về bờ bến xa.
Đền đài đất tổ quê cha.
Chìm trong bể khổ ta bà tang thương.

Thầy cô lưu lạc dặm đường.
Nhớ thương Đất Mẹ mái trường xưa xa.

Nancy,1976
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]













Tập thơ TƯỢNG của ĐOÀN THUẬN

thật ấn tượng
_____________________________________
TRẦN DUY LÝ 


          Nhà thơ Đoàn Thuận gửi tặng tôi tập thơ Tượng do N.X.B Trẻ mới ấn hành đúng ngày Nguyên tiêu nhưng loay hoay mãi bây giờ tôi mới viết.

           Tôi cũng nhẩm tính, đây là tập thơ thứ 22 của Đoàn Thuận sau 21 tập thơ đầy đủ các thể loại như thơ lục bát, thơ tự do, thơ Đường, thơ Hai ku, thơ trào phúng nói lên đầy đủ bút lực của Đoàn Thuận, một nhà thơ sinh ra ở La Gi, dạy học ở La Gi, đến lúc nghỉ hưu mới vào trú ở Thảo Điền thuộc thành phố Hồ Chí Minh.              .

          Địa danh Thảo Điền có cái gì đó rất thơ, phù hợp với tính cách Đoàn Thuận; chả thế mà cũng ở Thảo Điền anh có liền 6, 7 tập thơ ra đời, tôi cảm phục Đoàn Thuận, vì anh biết nuôi dưỡng một hồn thơ từ thuở thiếu thời cho đến lúc thất thập cổ lai hy.

        Tập thơ Tượng dày 90 trang nhưng là thơ 4 câu. Thơ 4 câu cũng đồng nghĩa kiệm lời, ít chữ mặc dầu suy tưởng thì thật bao la.

        Thêm một ấn tượng khác trong tập thơ Tượng của Đoàn Thuận chính là Lời ngỏ: “Trước sức sống mãnh liệt của dân tộc/ Trước vẻ đẹp diệu kỳ của đất nước/ Ngôn ngữ có điều hữu hạn/ Mẹ kính yêu/Xin mẹ hãy xem những dòng thơ ngắn này/ Như lời ghi chép vụng về của con”.

        Suy nghĩ này của Đoàn Thuận làm tôi nhớ đến một triết lý nổi tiếng mà tôi không nhớ rõ của ai, hình như của Goocky thì phải:

Ánh dương sinh những đóa hồng                                                   .
Mẹ hiền sinh những anh hùng thi nhân.

          Bao giờ cũng vậy, người mẹ hiền thảo luôn tạo cho con có một tâm hồn thi sĩ.

          Tập thơ Tượng muốn gửi gắm cái vững chãi của tượng hình đất nước phải chống chọi với lũ ngoại xâm… Nét tượng phong sương giữa đất trời/ Hóa thạch bao mùa dòng nước mắt/ Môi cười mím chặt nỗi đau đời (Nét tượng).

          Hơn thế, Tượng ở trong lòng người mới thật giá trị:               .                                          .

“Phẩm hạnh hiền nhân đâu tạc tượng                    
.   .
Vẫn in tâm thức kẻ lương dân                      .         .
Hình bóng xác thân lũ bạo chúa.                            .
Mục rã vùi quên dưới mộ phần                           .          .
 
(Bóng hình).

        Thơ 4 câu mà nói nhiều hơn cả vạn chữ là nét nổi trội của Đoàn Thuận. Không rõ anh chọn vùng đất Thảo Điền để cư ngụ là ngẫu nhiên hay cố ý nhưng rõ ràng ở đó hồn thơ của anh thật sâu lắng:

Nửa đời bỏ ruộng đi theo sách                                     .
Nhớ điếng làng quê dáng mẹ gầy.                                     
.
Bát canh bồ ngót cơm lúa mới.                              .
Khói bếp đêm hè vương mắt cay.                                .
 (Nỗi quê)

        TRẦN DUY LÝ.                     

*

Đoàn Thuận tạc 2000
 

 


NÉT TƯỢNG

Khuôn mặt nào ai in vách núi.
Nét tượng phong sương giữa đất trời
Hoá thạch bao mùa dòng nước mắt
Môi cười mím chặt nỗi đau đời.

ĐOÀN THUẬN

 

HỒN ĐÁ

Sắc màu in thắm trong hồn đá
Lẫn nét buồn xa khuôn mặt xưa
Mùa tạc hồng hoang vào tịch mịch
Khói mây hoá kiếp một làn mưa.

ĐOÀN THUẬN



BÓNG HÌNH

Phẩm hạnh hiền nhân đâu tạc tượng,
Vẫn in tâm thức kẻ lương dân.
Hình bóng xác thân lũ bạo chúa,
Mục rã vùi quên dưới mộ phần


ĐOÀN THUẬN
tranh của



Đoàn Thuận tạc 2001


TƯỢNG

1.
Đuốc thiêng trên đài gió
nghìn thu soi tỏ mặt đêm không
nét tượng búp sen nở.

2.
Đất lắng trong nguồn nước
hoa cỏ núi non muôn ngàn năm
trăng rừng nhớ hạc cũ.

3.
Biển mặn vào mênh mông
lửa đời nhóm lên từ cay đắng
buồn vui thực như không

4.
Trong vườn cây lâu năm
nhà mẹ hướng nhìn mặt trời mộc
một cây nguyệt quế thơm.

CÁT SỸ





THẠCH THẢO
1.
cỏ đá nát hồn tịch mịch xưa
nở hoa theo cát bụi
hương bay khuất vào mùa

2.
thơ ngụ hình trong hoa
dấu xưa thầm hóa đá
tiếng nứt của mùa lạnh núi xa.

ĐOÀN THUẬN



PHÍM ĐÁ

Lặng trong trời đất
một giọt hương rừng
nghe từ cát bụi
nỗi niềm riêng chung

Chạm lên phím đá
tiếng hát xanh mầm
tạc vào thế kỷ
tượng ngồi trăm năm.

ĐOÀN THUẬN




Đoàn Thuận tạc 2002


THỬ TẠC TƯỢNG

Nhặt đá vùi quên ở vệ đường.
Tôi về gột rửa dấu phong sương.
Tìm trong vết nứt màu hoang phế.
Thấy giữa vân hoa sắc đoạn trường.
Tạc nỗi buồn xưa lên thạch thảo.
Ghi niềm vui cũ xuống sa cương.
Mai sau núi lở sông hồ cạn.
Tượng vẫn bên đời vọng cố hương.

ĐOÀN THUẬN




TƯỢNG BÁN THÂN

Tạc mặt con người chẳng giống ai.
Đâu thành thần tượng hay anh tài.
Hằn sâu nếp trán chiều suy tưởng.
Nứt lệch làn môi điệu cảm hoài.
Hảo hán giang hồ râu cắt ngắn.
Giai nhân thục nữ tóc buông dài.
Tìm chi giữa cõi hồn nhiên trước.
Diện mục đời ai lúc đậu thai.

ĐOÀN THUẬN




TƯỢNG ĐỜI

Thử chạm đời lên phiến đá thô.
Ta nghe thạch thảo nở mơ hồ.
Mây mưa hoá hiện hoàng hoa muộn.
Gió cát trầm luân nhật nguyệt mờ.
Núi nát ba sinh sầu cổ độ.
Tro tàn hương lửa lạnh hư vô.
Làm sao tạc được hồn non nước.
Một nỗi niềm riêng lẫn giấc mơ..

Tân An,2003
ĐOÀN THUẬN


 

 

 










.

tranh Vương Duy.



CHIỀU TÔ CHÂU.
_______________________

Cát Sỹ

        Tôi đến Hà Tiên dạy học vào một buổi chiều. Sắc chiều còn lại ở chân trời là những áng mây trắng, che dần ráng đỏ, trôi vào đêm.     .                                    .
        Quán cốc cuối đường qua bãi Thuận Yên đã thưa khách, chỉ còn ba người đàn ông  đang lai rai mấy chén rượu đế. Phố Hà Tiên, nằm bên kia hồ, mờ mờ trong bóng chiều. Những ngọn đèn đỏ quạch. Vài ngọn dừa cao trên mái nhà ngói cổ. Phố im lìm dù mới chớm đêm. Hồ Đông như một vòng cung ôm khu phố. Nhìn từ bên này Thuận Yên, phố nhỏ nhưng thơ mộng                                         .              
          Bụi đường phủ đỏ trên tóc trên vai áo, trên chiếc túi xách hành trang. Đã nhiều chuyến đò qua bờ bên kia và trở lại cắm sào bên pong-tông cầu xi-măng. Tôi ngồi bên quán nhỏ mà tưởng mình là kẻ giang hồ lữ thứ bao đời. Một cốc rượu trắng nhâm nhi hoài không cạn. Phố cách một chuyến đò ngang mà tôi chẳng muốn sang. Hà Tiên thơ mộng, với tôi, như một nơi dừng bước tạm thời. Con đò nhỏ vẫn nằm im bên bờ vắng, chờ đưa người khách lạ sang sông. Ánh đèn dầu le lói soi bóng thuyền nhạt nhòa trên dòng nước.                         .                                                         .
          Phố nhỏ chìm dần vào giấc ngủ khuya khi con đò tách bến. Nhịp chèo lắt lay làm nhớ chuyến đò ngang bến cũ Tân Long. Tôi như người biệt xứ tha phương cầu thực                                               .

         
Thuận Yên, 1/1970     

      

CHIỀU TÔ CHÂU

Dừng chân trên bến Tô Châu.
Bờ cây
lói cỏ quánh màu gió sương.
Ô đèn thắp bóng con đường.
Mấy ngôi nhà cổ, mấy tường rêu phong.

Dừng chân bến đỗ bên sông.
Lửa thuyền đêm lạnh giữa mông mênh mùa.
Tiếng người khuất dưới lau thưa.
Ngờ như lời cổ thi vừa bay qua.

Tô Châu,1970
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]
*
 
 



BA LÁ trên ĐÔNG HỒ


Cùng nhóm Ba Lá thả thuyền trôi.
Đàn bầu đệm ru nhịp chèo bơi.
Lam thôn dạ cổ lời sông nước.
Âm điệu du dương buồn chơi vơi.

Thuyền vào rừng đước, theo con kênh.
Cùng hoa cỏ dại trôi bồng bềnh.
Hồn nhiên gió chuyển mùa nước nổi.
Với bao cánh bèo dạt lênh đênh.

”Lá rơi đắp mộ một cuộc tình”.
Lời hát ru theo hương phiêu linh.
Giã từ rong rêu bến bờ cũ.
Khi lá nương thân đám lục bình.

Đông Hồ mù sương pha lê thê.
Cỏ hoang lang thang khắp bốn bề.
Ba Lá dừng bên rễ chân đước.
Nước ru nhịp gõ vào bến mê.

Hà Tiên,1972
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 

 

ĐÊM THỨC HÀ TIÊN

Góc trời đêm lạnh Hà Tiên.
Gió bờ dương liễu Thuận Yên ru sầu.
Sóng vùi cát bãi đêm thâu.
Vết chân chim đã nát nhầu bóng ai.

Nằm nghe sông núi thở dài.
Nghe ta giữa thế kỷ hai mươi buồn.
Hồ Đông in bóng trăng suông.
Một dòng sông cũ nhớ nguồn xa xôi.

Đảo hoang cây cỏ bồi hồi.
Áo xưa bụi phủ một thời đau thương.
Mãi lo mãi khổ đôi đường.
Trên quê hương lại tha phương mịt mù.

Nửa đời già cỗi tiếp thu.
Lửa nhân sinh đốt khói rù khe tim.
Tô Châu phố ngủ im lìm.
Ta ôm nỗi xót xa tìm vào quên.

Hà Tiên,1970
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]





.






tranh của Antonio Tano





BÀI CA ĐẸP
về 
QUÊ HƯƠNG LA GI _________________________________________________________

MINH QUANG

         Nhà thơ may mắn có điều kiện nên chọn lấy mảnh đất quê hương mình để “cày bừa gieo hạt”. Đoàn Thuận, một nhà giáo làm thơ là một người như vậy. Anh đã có một  quê hương Lagi của mình để yêu thương, để gửi gắm vào đấy tất cả tấm lòng tha thiết biết ơn. Quê hương ấy chính là mẹ, là người thân, là tất cả những gì cảnh vật thiên nhiên nơi anh sinh ra và đã sống. Quê hương Lagi đã nuôi dưỡng anh như người mẹ mong mỏi anh trưởng thành và có ích. Hẳn nhiên là anh không phụ lòng và hổ thẹn về những gì mình viết ra trong tập Lagi ngàn xanh rất được bạn bè chú ý.

             Dễ thấy Lagi ngàn xanh là bài ca đẹp về quê hương của anh. Phải yêu quý mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình đến độ nào thì Đoàn Thuận mới có những bài thơ, câu thơ dạt dào rung động.

         Quá nửa đời dạy học, gắn bó với quê hương như máu thịt, Đoàn Thuận luôn có thơ. Anh mong bày tỏ với quê hương, với cuộc đời tiếng lòng thơm thảo, chân thành, đắm say và hẳn nhiên đây cũng là một sự trả nghĩa với quê hương mà không phải người làm thơ nào cũng làm được. Đó là một thiên hướng đồng thời cũng là một thế mạnh của Đoàn Thuận. Thiên hướng và thế mạnh này cũng được anh thể hiện trong các tập thơ khác (Mùa bấc biển, Lời chiều, Mái xưa) . Đến Lagi ngàn xanh, được anh phát triển mở rộng thêm. Có cảm tưởng, hình như anh muốn bộc lộ nữa, dãi bày nữa, chưa hết. Trường ca Lagi, qua 12 tháng, qua 12 thôn xóm,  là một bài ca khá thiết tha, xúc động về Lagi – quê hương của anh, chưa đủ, anh lại nói thêm nữa, bày tỏ thêm nữa, cụ thể thêm nữa về Một chiều Lagi, Chiều ở Núi Đất, về Một dòng sông, Quê biển, Trên sông Dinh, về Lagi khuya, Mùa bấc, đêm Hồ Tôm,…Lại nữa, khi tái bản tập thơ này, anh bổ sung thêm Huyền thoại Hòn Bà-Núi Ông, một bài thơ khá dài (bị thất lạc trước đây) nói về nguồn cội Lagi. Tiếng thơ, tiếng lòng đó có rất nhiều trong Lagi ngàn xanh.           .
        Phải nói là mảnh đất Lagi để thương, để nhớ đối với anh nhiều lắm, và anh cũng nặng ân tình lắm đối với quê hương mình. Nhiều nhà thơ khao khát được như vậy. Tôi nói khao khát thôi, chứ không phải nhất thiết làm như vậy mới nên nhà thơ. Đoàn Thuận đâu có ép mình, trái lại đây là những điều tự nhiên đối với anh. Tâm hồn anh luôn bắt nhịp, tìm về các giai điệu của quê hương để mà nhấn phím, để mà ngân lên lời từ thuở cha ông khai nguyên mở đất đến cuộc sống đổi mới hôm nay.

mình. Có được không ? Tôi nghĩ là được. Và đó cũng là một thành công đáng ghi nhận đối với Đoàn Thuận.                                    .

Quê hương vùng biển lắm cá nhiều tôm. Quê hương có địa hình khá độc đáo: Sơn thủy hữu tình, biển núi cận kề, xen vào đó là đồng bằng uốn lượn, có sông, có cửa biển, trên hết là người dân biển quen ăn sóng nói gió, chỉ biết lao động cần cù sáng tạo để xây dựng quê hương, từng ngày, từng ngày no ấm thêm lên. Nghĩ thật may mắn cho anh được sống, trưởng thành trên miền đất yêu quí đẹp giàu, Trên hết là tấm lòng thi nhân trước cuộc sống con người của quê hương mà Đoàn Thuận là tiêu biểu cho những thi nhân ở Lagi làm được bổn phận này.

           Thử dẫn ra đây vài câu thơ, đoạn thơ, đủ thấy được âm hưởng mạch cảm đó của Đoàn Thuận:

Từ xa lắm Người về mở đất                 .
Khơi nguồn xanh, vườn ruộng lên xanh          .                    
Những hạt lúa Ba Thăng, Ba Thắc.              .
Những Nàng Hương, Nàng Sậu thơm lành
hay:
Nơi cư trú tâm hồn biển dã.
Da sạm màu mùa lộng mùa khơi.
Những Năm Báng, Bảy Chờ, Hai Lưới.
Mùa động dài, động tố rong chơi.

Những mùa mực biển như phố nổi.
Ánh đèn câu lấp lánh chân trời.
Mùa cá bẹ, cá mòi, cá nục,
Thuyền câu về Chợ Cá Biển vui.
(Lagi ngàn xanh)

và đây nữa:
Vòng cung biển ôm Vịnh chiều thẫm biếc
Dăm con thuyền dần khuất phía đảo xa.
Đèn câu khơi ảo chân trời viễn phố.
Nửa vầng trăng treo lửng bóng dương già.
(Một chiều ở Ngảnh)

Trời xanh, xanh ngắt mênh mông
Núi ngàn xa ngóng bềnh bồng mây qua.
Mây làm mưa rớt đồng xa.
Mưa về cho đất nở hoa mùa vàng.

Nhưng mùa khô, nước chẳng sang.
Để cây lúa đứng bàng hoàng nhớ mây.
Núi Đất ơi, với bàn tay.
Ta xin đưa nước về thay mưa nguồn.
( Đất nở hoa)
Tấm lòng đối với quê hương, đó là mặt được  cũng là thành công qua nhiều sáng tác của anh. Điều ta cần trao đổi thêm ở thơ anh là nội dung nhìn chung còn dàn trải. Anh kể nhiều hơn gợi, hay dùng cảm xúc để lướt qua. Người đọc cũng theo được nhưng sức neo bám còn mức độ, vì ít câu thơ, khổ thơ hay; ngôn ngữ và hình ảnh thơ chưa thật đắt, dẫu không cầu kỳ, khó hiểu nhưng ít hàm súc, cô đọng, ít sáng tạo, hay sa vào mòn cũ, kiểu như hoàng hôn, cô liêu, hiu quạnh, vô biên, bao la, mộng mơ, ngày mai, tương lai, xanh tươi,  nở hoa, thùy dương….Điều đó bạn đọc đòi hỏi anh cần có một sự “lao động thơ” nhiều hơn nữa, dụng công nhiều hơn nữa. Sự  rung cảm trước hiện thực cuộc sống thì người làm thơ nào cũng phải có. Cái quan trọng là từ rung cảm đó tạo nên một hàm lượng thơ thế nào cho thật đắc địa, thật hợp lý thì lại phụ thuộc vào quy trình “lao động thơ” của nhà thơ rồi.  Thật quí trọng anh có tâm hồn dạt dào cảm xúc, nhưng xét về khía cạnh trên thì bạn đọc còn mong anh nhiều hơn nữa, tinh chất nhiều hơn nữa trong thơ mình. Điều này mở đầu tập thơ, trong Ý nghĩ, Đoàn Thuận cũng đã bộc bạch:                     .          .
Mỗi khi làm xong một bài thơ                                     .
Tôi vẫn không hài lòng                                      .
Bởi ngôn ngữ có điều hữu hạn                                       
Mà lòng tôi mênh mông                                            .
Như dòng sông chảy mãi                                          .
Khi nghĩ về quê hương                                          .
        Chắc chắc với một tình yêu như thế, một tấm lòng như thế, Đoàn Thuận sẽ có thơ hay đến với bạn đọc.                               
       
           MINH QUANG.                      

 

MIỀN THƠ BIẾC
[Hòn Bà Núi Ông]

Dưới trăng xa lắm trong huyền thoại.
Con bấc mênh mang, sóng bạc đầu.
Đôi vần thơ biếc xanh trời đất.
Như một lời nguyền để mai sau.

1.
Ngày xưa, một chuyến bè sang biển.
Núi tiễn đời Đảo nhỏ vào thơ.
Mảnh Thiên Y choàng lên sóng biếc.
Dòng sông Dinh hoa kết đôi bờ.

Đảo bé bỏng nơi miền biển nắng.
Tuổi hồng thơm trăng nhỏ tròn đầy.
Vần thơ biếc cho lời thứ nhất.
Khi mùa về gió lạnh ngàn mây.

Những lá thắm thả theo dòng bích.
Giữa rừng xanh và biển mộng mơ.
Tin chưa đến, Đảo buồn dậy sóng.
Dòng chưa trôi, Núi đã ngóng chờ.

Buổi xa cách lạnh sông nhạt nắng.
Con gió nào làm rối tóc mây.
Một chút muối mặn trên môi sóng.
Giọt thu vàng xưa chợt vơi đầy.

Thuở ban sơ, tự nhiên thơ mộng.
Cũng thoáng buồn qua buổi đợi mong.
Trong cách biệt có niềm chung thủy.
Khi Đảo về giữa biển mênh mông.

2.
Từ dạo ấy, vẫn còn đâu đó
Một vầng trăng lặng lẽ thinh không.
Và năm tháng làm phai màu núi
Giữa ngàn non, Núi đã lên Ông.


Núi ghì chặt tình vào hồn đá
Những cánh rừng xanh thẳm lạnh băng
Dòng La Ngà tiếng đàn trầm lắng
Ru cõi bờ tím ngát bằng lăng.

Và như thế bao mùa rừng cũ
Tóc sương mềm trên vai lặng yên
Núi vẫn đứng ngóng trông về biển
Tinh đất trời đâu dễ nào quên

Đất La Gi biển rừng xanh biếc
Thoảng hương nguồn một thuở nên thơ
Núi và Đảo cùng phương trời nhớ
Tình nước non không thể phai mờ.

Chính tình yêu đưa xa gần lại
Cho núi sông thêm nghĩa yêu thương
Và hạnh phúc ở đâu cũng vậy
Rất đơn sơ trong cõi vô thường.

3.
Nằm trấn giử giữa muôn trùng sóng
Hòn Đảo xưa được gọi tên Bà
Vẫn thơ mộng một miền thơ biếc
Tình thủy chung đâu luận trẻ già.

Cũng từ đó nơi miền biển cũ
Dòng sông Dinh đưa nguồn về khơi
Động Tiên Sa lắng hồn lặng tĩnh
Của tình yêu rừng biển muôn đời.

Mây theo gió, mây về viễn xứ
Sóng ru bờ, bờ ngủ bao năm
Đàn chim biển ngang trùng dương biếc
Mang lời ru từ cõi xa xăm.

Trong lời gió có lời của biển
Của rừng xa và núi ngàn xưa
Đã thắm biếc đôi bờ dương liễu
Để ngàn sau nhịp võng đong đưa.

Ai rót mật cho lời mây nước
đêm ca dao có tự bao giờ
Mùa trăng sáng bắc cầu dải yếm
Chính tình yêu đã nén thành thơ.

4.
Huyền thoại nào chẳng từ sự thật.
Cuộc tình nào chẳng có mưa ngâu.
Cầu Ô Thước bắc qua dòng bích.
Không tình yêu đâu có mai sau.

Đêm cổ tích không còn cổ tích.
Khối tình Bà thành đảo Thiên Y.
Nỗi nhớ Ông đã cao thành núi.
Con sông Dinh dòng nối nguồn về.

Nơi hoa mộng chân trời xanh thẳm.
Hương trăng xưa thơm thoảng ngàn năm.
Lời thơ cũ ghi vào đá núi.
Đời bên nhau từ lúc chưa rằm.

Đêm sao sáng thay vầng trăng khuyết.
Ước mong thầm đời mãi dài lâu.
Nếu đã có tình cao như núi.
Cũng có tình sóng vỗ bạc đầu.

La Gi, 1974
CÁT SỸ





LA GI NGÀN XANH

1.
Người về đây, La Gi rừng biển
sóng đong đưa dương liễu đong đưa
con tu hú gọi chiều xa lắc
phía Dinh Thầy vương khói rừng thưa.

Biển vẫn hát lời chiều của biển
những con thuyền lộng gió về khơi
đem thơ ấu ta vào tưởng tượng
theo bóng mây phố cổ chân trời

Mùa bấc thổi tháng giêng vời vợi
mang lời ru của Mẹ vào xưa
lời ru mang cánh đồng con suối
có mây chiều làm rụng hạt mưa.

2.
Lời ru mang tiếng chuông Tà Cú .
cánh cò chiều về trắng Bưng Ngang.
ta thả hết hồn vào huyền thoại
nàng tiên Rừng Thị Ngọt mơ màng.

Lời ru qua những đồi cỏ cú
cánh diều bay đưa tuổi thơ đi
những chuyến đò Tân Long Tân Lý
chở nắng vàng phố cát La Gi.

Lời Mẹ ru qua ngàn đỉnh núi
nỗi mong chờ những đứa con xa
những đứa con quên mình vì nước
những đứa con đi dựng quê nhà.

Lời ru qua những chiều tịnh vắng
những hồn mùa và những dòng sông
tình non nước ru vào sâu thẳm.
một vầng trăng ru biển mênh mông.

3.
*
Từ xa lắm, khi mùa chưa đến
khi ngàn xanh, xanh tự ban sơ
hồn nhiên núi ngoảnh nhìn về biển
cõi Tiên Sa xanh ngát bãi bờ.

Mũi Đá nằm ôm hồn Núi Bể
mơ ngàn năm Núi Nhọn lên trời
và Núi Đất còn nguyên dáng đứng
bên Hồ Cây in bóng mây trôi.

Rừng xanh thẳm dài theo biển nắng
Sao, Bằng Lăng, Chò, Gõ, Dáng Hương
Dầu, Săng Đá, Sơn Đào, Lim, Trắc
Lá Buông rừng,Tre gộp, Mây bưng.

Tiên nữ hái hoa nguồn Suối Đó
về Mây Tào thả khói lên khơi
để Đá Dựng mùa đào đẹp mãi
và Sông Dinh trầm mặc không lời.

**
Dòng sông chảy mang hồn cổ tích
của chuyện tình xa xưa bao năm
nơi rừng vắng, Núi Ông lặng lẽ
cõi đại ngàn, ngàn xanh xa xăm

Dòng sông chảy thành mùa về biển
sầu ly gia lắng xuống cõi lòng
Hòn Bà dấu Thiên Y trên sóng
cho biển trời, trời biển mênh mông.

Tình một thuở đã thành muôn thuở
Sông Dinh trôi mạch nối đôi miền
dòng nước ngọt từ nguồn sâu khuất
biển mặn nồng tình nghĩa vô biên.

4.
Từ xa lắm, người về vỡ đất
khơi nguồn xanh vườn ruộng lên xanh
những hạt lúa Ba Thăng, Ba Thắc,
những Nàng Hương, Nàng Sậu thơm lành

Nơi cư trú mảnh đời lưu lạc
những Láng Gòn, Láng Đá, Láng Sim
những Bàu Sen, Bàu Tràm, Bàu Sót
nơi đất lành cho những cánh chim .

Đông thêm xóm lên rừng xuống biển
về Tân Minh, Tân Hải, Tân Hà
về Động Chú, Hồ Tôm, Suối Dứa,
phố thêm dài, đồng rộng, thôn xa.

Tên làng xóm mang nhiều mộng ước
người Thiện Hoà, cuộc sống Bình An
quê hương xanh của rừng biển mới
đầy sức xuân trong một chữ Tân.

5.
Từ xa lắm, người về với biển
bãi bờ thêm Xóm Vạn, Làng Chài
những thuyền thúng lưới rùng lưới sẫm
những mái chèo lướt sóng câu khơi.

Miền biển thêm Xóm Dừa, Xóm Lưới,
thêm Chợ Chiều, Bến Cá, Bãi Câu
và ngày tháng dài theo tiếng sóng
Đồi Dương xanh ru nhớ Bờ Dâu

Nơi cư trú cuộc đời biển giả
da sạm màu mùa lộng mùa khơi
những Năm Báng, Bảy Chờ, Hai Lưới
ngày động dài, động tố rong chơi.

Những mùa mực, biển như phố nổi
ánh đèn câu lấp lánh chân trời
mùa cá Bẹ, cá Mòi, cá Nục,
thuyền câu về, Chợ Cá Biển vui.

Mùa bão rớt , sóng xô bờ cát
thuyền ai neo gác mái bên sông
ai sửa thúng, xảm thuyền, vá lưới
ai lạnh lùng bấc thổi đêm không!

6.
Vài món ăn trở thành đặc sản
thịt Nai xào với Cải Rổ thơm
chua Cá Lóc lá Dang, lá Bứa
gạo Nàng Co nồi đất thổi rơm.

Chút hành ớt ngọt canh Phơn Phớt
cá Mòi Dầu kho với Măng Le
Mực tươi nướng rau răm mắm nhĩ
gỏi cá Mai ăn chẳng muốn về

Người xa xứ nhớ hoài trái lạ
những trái Xay, trái Diếc, trái Gùi
Trâm chín tím, Thanh Trà, Nổ trắng
Xoài Quéo chua, Sim ngọt, Gấm bùi

7.
Từ xa lắm, xuân về Mai nở,
rừng thơm hương của Ngọc Điểm lan,
đông se lạnh, thu đầy bão rớt,
hạ vừa sang Phượng Vĩ đỏ làng .

Nơi cư trú tâm hồn cao quí,
những người con tận hiếu tận trung,
những Mẹ hiền tảo tần khuya sớm,
những mối tình bền vững thuỷ chung.

Dốc Ông Bằng người về thắp đuốc
ánh lửa hồng đánh thức rừng đêm.
tiếng gà gáy Văn Kê, Cửa Cạn
bình minh về cho biển xanh thêm.

8.
Người về đây một chiều yên tĩnh
nghe mạch nguồn dưới núi rừng xa,
nghe hạt nứt trong lòng đất mới,
nghe mùa về gọi biển bao la.

La Gi,1972
CÁT SỸ


>


TRƯỜNG CA LA GI

 

La Gi rừng biển ngàn xanh.
Gió mùa nồm bấc thổi quanh bãi bờ.

Trăng vàng chất ngất câu thơ.
Đêm yên ả để bâng quơ tiếng cười.
Sóng xa xô dạt chân trời.
Về phương nhớ của một thời ban sơ.

Trường ca Quê Mẹ mộng mơ.
Ru Sông Dinh biếc lững lờ tràng giang.

.1. THÁNG GIÊNG VỀ BIỂN LA GI

Tháng giêng, sâm cát nở vàng
Đồi xa cỏ cú đã tràn sắc non
Quả rừng Thi Ngọt đang tròn
Lộc xanh mơ những lối mòn về Dinh

Biển xa như chợt lặng thinh
Nghe dương liễu hát ru tình xa xưa
Nhẹ mưa như thể không mưa
Ngỡ sương hồ Núi pha vừa tiếng ngân

Âm thầm núi đã vào xuân
Một ngàn mai nở bâng khuâng trời chiều
Hương đầy một cõi tịch liêu
Ai người về phố bóng xiêu chân rừng

Bỏ mùa đông lại sau lưng
Ngày mang nắng mới sang mừng tuổi em
Sắc rêu xanh những bậc thềm
Càng thương lưng mẹ còng thêm tháng ngày

Bầy chim én lại về đây
Hạt trăm năm cũ nở đầy màu xuân.

2. THÁNG HAI VỀ ĐỒNG TÂN LÝ

Tháng hai, động tố lại gần
Hạt mai già rụng đầy sân rêu vàng
Bãi dài bấc vẫn mênh mang
Bầy chim di rét nối hàng về xa.

Trời trong chẳng bóng mây qua
Đất đai chờ hạt mưa sa vào mùa
Bên đìa vẫn tím hoa mua
Dậu bờ vẫn lá dang chua xanh màu
Người về hát trước nương rau
Nghe trong lau lách sắc màu mùa vui.

Sông Dinh trầm mặc về xuôi
Bến Tân Long tiễn đưa người câu khơi
Bãi bờ sóng vỗ muôn đời
Làng hoa Tân Lý ru lời Bình An
Ru qua biển bạc rừng vàng
Ru con mú kẻm vào khoang thuyền đầy
Ru con mực ống như say
Ánh đèn phố nổi lắt lay chân trời

Và ai gõ nhịp đêm trôi
Khúc tình ca cũ chơi vơi nỗi niềm
Lời nào cho những cánh chim
Lời nào vào cõi im lìm núi xa

3. THÁNG BA VỀ HỒ NÚI ĐẤT

Cuối trời mây lững lơ qua
Nồm đưa con bấc tháng ba xa ngàn
Con chim tu hú gọi đàn
Nương dưa rẫy bắp bàng hoàng đợi mưa

Khói chiều vương khóm lau thưa
Thanh trà tròn quả đong đưa bên rừng
Trái mây hồng ửng triền bưng
Dăm con bói cá như ngừng cánh bay

Có ai trỉa lúa trăm ngày
Hạt Ba Thăng ủ mộng đầy non xa
Nước ngầm dưới bóng mùa hoa
Nước tràn Láng Đá nước qua đồng chiều

Rễ rừng hạt đất chắt chiu
Bao nhiêu giọt nước bấy nhiêu mùa vàng
Mặt hồ Núi Đất mênh mang
Lặng thinh soi bóng mây ngàn bâng khuâng.

4 THÁNG TƯ VỀ NGẢNH TAM TÂN

Tháng tư về Ngảnh Tam Tân
Một vòng cung biển Hàm Tân nối dài
Đồi sầm động cát chia hai
Dinh Thầy tĩnh lặng, Xóm Chài xôn xao.

Gió qua Khe Đước Vườn Đào
Cho lan hồ điệp chạm vào hương đêm
Trăng vàng soi Mỏm Đá Chim
Lung linh những sợi tơ mềm liễu dương.
Sóng tung nước trắng như sương
Khẽ rơi trên gộp đá vương rong dài.
Một vùng như thể Thiên Thai.
Khách du thoát tục lòng hoài cố nhân.

Nhớ ai mang đến mùa xuân
Đêm hồng ánh đuốc thanh tân cõi bờ
Ấm nồng giấc ngủ em thơ
Tự do hạnh phúc ước mơ muôn đời.
Người tù Côn Đảo xa xôi
Về đây nghe biển vọng lời nước non

Khe Sâu chảy xiết đá mòn
Đài Ngô Đức Tốn vẫn còn dấu xưa.
Đồi Mai Đỏ Ngọn nắng mưa
Người về an dưỡng giữa mùa hương quê


5. THÁNG NĂM về GIẾNG NGUỒN CHUNG

Cỏ non xanh mượt bốn bề
Tháng năm giục cánh cò về Bưng Ngang
Lối Dinh không động hoa vàng
Mưa nồm rơi nhẹ lá bàng cuối truông.

Bên kia hồn của hồi chuông
Nghe rừng Thầy Thím thoáng buồn xa xăm
Bể dâu tàn cuộc trăm năm
Nhà thơ Ngu Í chỗ nằm còn đây.

Thực hư lắng xuống tháng ngày
Khuyết tròn trăng một cõi này mộng mơ
Sóng xô cát mặn vô bờ
Bãi gom Nước Ngọt, bến chờ Nước Trong.

Về đây một giếng Nguồn Chung
Quê hương rừng biển mặn nồng xưa sau
.

6. THÁNG SÁU VỀ SÔNG DINH
*
Sông Dinh, tháng sáu, trôi mau
Hạ tàn rừng cũ thu vào xanh thêm
Đôi bờ xanh biếc êm đềm
Vòng qua Châu Thuỷ những đêm trăng vàng.

Khóm lau trắng buổi thu sang
Hoa bằng lăng tím bên ngàn rơi rơi
Nắng mai ánh nước xanh trời
Khói chiều vương túp lá tời mộng mơ.

Sương khuya bảng lảng như tơ
Ru hồn rừng núi truông hồ về xuôi
Ru đời qua những buồn vui
Những tình xanh, những ngậm ngùi chia ly.

Lũ tràn đập Đá Dựng đi
Dòng soi trúc biếc, bóng phi lao dài
Ven nà xanh liếp rau khoai
Lối mòn qua những vườn mai xóm dừa

**
Con đò nào bến sông xưa
Một chiều Tân Lý mẹ đưa ta về.
Sông bồi vòng một cung quê
Một bờ phố thị theo đê cát vàng.
.
Cầu cong thay chuyến đò ngang
Nối Chợ Cá Biển với Làng Hoa xưa
Một bờ mờ ảo đêm mưa
Long lanh bóng đước, đong đưa lửa chài.
Bấc mùa thổi lạnh giêng hai
Thuyền câu đậu Xóm Lưới dài Tân Long
.
Suối nguồn về họp Biển Đông
Hòn Bà mãi nhớ Núi Ông bên trời.
Cửa sông khi lở khi bồi
Dòng Dinh vẫn chảy muôn đời trong ta.

7.về PHỐ BÊN SÔNG

*
Những chiều tháng bảy mưa sa.
Đôi hàng dương liễu la đà bến sông.
Những mai biển rất mênh mông.
Một loài chim biển chợt, không hẹn, về.

Những khuya trăng sáng đường quê.
Tiếng chuông ngân giữa bốn bề lặng im.

Trăng ru thuyền ngủ bờ đêm.
Sóng ru nhà phố lim dim giấc đời.
Sông Dinh ru nước về khơi.
Thời gian ru cát bụi dời bâng khuâng.

**
Một ngày về lại Hàm Tân.
Ta như khách lạ tần ngần phút giây
Ngỡ ngàng phố cát đổi thay
Tìm trong mây nổi bóng ngày xưa xa.

Qua Cầu Đúc, nhớ Làng Hoa
Mái xưa tiếng võng ru ta bao ngày
Đâu rồi bến nước Sáu Say
Đâu Chợ Cá Biển đò đầy Tân Long

Lối xưa cát lún bụi lồng
Nay đường phố thị ngang Đồng Cô Ly
Thuyền về Kè Cảng La Gi
Tìm đâu Bãi Đước xanh rì Xóm Câu

Khuất xa bao góc phố sầu
Hàng rong quán cóc Đèn Dầu hắt hiu
Mái tranh vách lá xiêu xiêu
Đã vào cổ tích đã nhiều nắng mưa.

Giờ đây Thị Xã sang mùa
Nắng lên Phố Mới hoa đùa thôn xưa.

8.về XÓM HỌC

Người về Xóm Học đã thưa
Những trang vở khép vào xưa cũ dần
Hàng dương liễu đứng bâng khuâng
Khung trời tháng tám mưa ngần ngại bay.

Bước chân gõ guốc phố này
Áo em trắng những tháng ngày thư sinh
Sân trường giờ lại vắng thinh
Thềm ngoài lớp học rêu in sắc chiều.

Thuyền xa, bờ chợt cô liêu
Đàn chim bay khuất, quạnh hiu núi đồi
Nghỉ hè, em lại xa xôi
Mình ta giữa cõi muôn lời cổ thi.

Lá thu xanh gọi ngày đi
Ngoài ô cửa lớp mùa thi qua rồi
Đường về Xóm Học chia đôi
Vắng em bụi phủ chỗ ngồi lặng yên.

Những chiều ru gió sau hiên
Tưởng em ngồi học một miền quê xa
Mong ngày hạ trắng mau qua
Em về bước nhỏ lối hoa mộng này.

9.về ĐỒI TÂN AN

*
Tựu trường tháng chín về đây
Hồn nhiên áo trắng hàng cây sân trường.
Tân An đón gió ngàn phương,
Một đồi nắng, một đồi hương đất trời.

Một đồi cao trước biển khơi,
Một đồi xanh, giữa muôn nơi xanh màu.
Xanh non, Núi Nhọn Mây Tào.
Sông Dinh xanh, nước đổ vào biển xanh.
Xanh bờ, dương liễu cuối gành.
Xanh vườn, xanh ruộng, rừng xanh bạt ngàn.

Những đường liên tỉnh qua ngang
Nối khu Hành Chánh với làng thôn xa.
Vườn cây ẩn hiện xóm nhà.
Quanh năm khí hậu ôn hoà đất quê.

**
Xuân sang mai nở bốn bề.
Thu mưa, hạ nắng, đông se lạnh trời.
Mưa, vào ruộng rẫy nương đồi.
Nắng, làm mỹ nghệ, mộc phôi, đủ nghề.

Tình quê hương níu dân về,
Bên nguồn xưa vọng lời thề nước non.
Sâu trong nỗi mất và còn,
Giọt hồng máu thấm trong hồn đất đai.

Sóng xanh vỗ mộng bãi dài.
Rừng thiêng ôm giấc hình hài anh em.
Mẹ ngồi ru bóng trăng đêm.
Đồng quê bông lúa ru mềm Suối Sâu..

10.về lại LA GI
*

Thôi xin giữ lại mộng đầu
dù bao mưa nắng đã nhầu đôi vai
với yêu thương một dòng đầy
một mùa tuổi nhỏ tháng ngày lênh đênh

Về xe dốc đổ chênh vênh
dưới xa biển biếc hai bên rừng già
mênh mông xanh một Hòn Bà
mờ trong chiều xuống núi Tà Cú xanh
vườn ai sợi khói mong manh
hiu hiu bấc biển thổi quanh phố phường.

Ta đi kiếm sống tha phương
hành trang sách vở gió sương đầy hồn
ta về lòng dạ héo hon
một hàng phượng đứng dài con đường chiều.

**

Về nơi Đồi Gió quạnh hiu,
đất xưa quê Mẹ ít nhiều bâng khuâng
suối trôi trong dáng ngại ngần
người đi để nhớ đôi lần trong mơ.

Bãi hoang với cát lưng bờ
dấu chân chim đã mịt mờ lối xưa
một đời ta những nắng mưa
lời ca dao cũ đong đưa phố sầu.

Ta về ngả nón qua cầu
nhớ trang thư cũ những câu tạ từ
có gì đâu một mùa thi
ngày thơ ấu đó cũng mù xa thôi.

Giờ ta Xóm Nhỏ bồi hồi
nghe hoàng hôn rụng cuối trời lặng thinh.

11. về XÓM RẪY

*
Một vùng Xóm Rẫy, Hoà Minh
Tháng mười một
, nắng lung linh sông Kiều
Nắng hoa làm nhớ bao điều
Buồn vui bên mẹ những chiều tuổi xanh.

Liệt lợ thêm chút ớt hành
Tô canh phơn phớt ngon lành, Mẹ ơi
Nắng mưa dầu dãi một đời
Xa xưa nhịp võng à ơi ru buồn.

Dù nghèo cũng thể quê hương
Vàng son cũng chỉ một phương đất người
Tháng ngày cứ mải miết trôi
Ầu ơ, tiếng Mẹ ru đời quanh hiu.

**
Mẹ ngồi đưa tiếng võng chiều
Ru Thầy nơi chốn tịch liêu không về
Hoa cau rụng trắng đường quê
Dấu giày cỏ lấp bốn bề lặng yên
.
Mẹ ngồi ru bóng trăng nghiêng
Gió đưa mây khuất qua miền núi non
Từng mùa cây sứ hoa thơm
Từng mùa mong ngóng đứa con xa mờ.
Một mình, Mẹ vẫn ầu ơ
Lời ru lẫn giữa sương mờ tịch liêu.

***
Lời ru ru lạnh bóng chiều
Mấy hàng lau trắng chợt hiu hắt buồn.
Tháp cao vừa rụng tiếng chuông
Con sông xa lắc rời nguồn về xuôi.
.
Lời ru ru đến ngậm ngùi
Tưởng hồn cát bụi ngủ vùi trăm năm
Mit mùng rừng núi xa xăm
Tiếng hoa buồn rụng lặng câm phố dài .

12.về  NÚI MÂY TÀO


Đạp rừng tìm một nhành mai
Giữa Mây Tào ngỡ như ngoài nhân gian
Dưới cây bao lớp lá vàng
Lẫn trong khe đá muôn ngàn sắc xuân.

Hoang vu thêm nỗi xa gần
Trăm năm cũng chỉ một lần một thôi
Đem thanh xuân hiến cho đời
Mê say sông nước một trời thơ trăng

Lên đây quên nhớ đôi đằng
Trán ưu tư để vết hằn ngày mai
Núi mây nhìn xuống sông dài
Tưởng đâu cây cỏ hình hài phân thân.

Với đời mơ ước xanh dần
Với ta năm tháng lần khân trong mùa
Cuối rừng thoáng bóng hoa mua
trên non mai nở vàng đưa xuân về.

Bao mùa gõ guốc đêm mê
Bao mùa bụi phủ bốn bề non yên
Lộc xanh trẩy hội  mọi miền
Và bầy én nhỏ về nghiêng cánh gần.
Tàn đông cây cỏ thanh tân
Cuối năm ngồi nghỉ dưới chân một ngày
Dốc dài cát bụi còn bay
Một đời ta ngỡ như đầy chiêm bao.

Cõi kia,  trước đã ai vào
Chỗ này,  sau nữa ai chào đón ai?
Hoa ngàn tự nở rồi phai
Hương trời thầm ủ hạt mai sang mầm.

Tóc tơ đời chỉ trăm năm
Đĩa mùa gõ nhịp giữa âm dương này
Chưa đêm đã đợi ánh ngày
Ngó sen biếc giữa bùn lầy cõi ta

Khói sương đầy tóc mẹ già
Giọt mồ hôi thấm vườn cà nương rau
Đất quê cắt rốn chôn nhau
Tình muôn năm cũ gửi vào hồn quê.

Yêu nhau xin vẹn lời thề
Nụ hồng, người tặng người về tương lai.


La Gi, 1972

CÁT SỸ


*





tranh của Bob Ross



QUÊ NHÀ LA GI
____________________________
Trần Cát Tường

                             

             Một trang bút ký, trên bốn trăm dòng lục bát, ghi lại đôi điều về trời biển núi sông miền quê cực Nam Trung bộ, nơi định cư lâu đời của thổ dân bản địa và nhiều họ tộc du cư. Cửa biển La Gi, cánh đồng ven sông Dinh, rừng già Láng Đá Dinh Thầy như chiếc nôi lớn ru bao lớp người về đây vỡ đất dựng làng.                        .
            Cuộc dâu bể làm biến đổi núi sông. Sóng biếc xô dạt bãi bờ, giông bão tàn phá bao cánh rừng,  đưa đẩy dân làng lang bạt tha phương, cát bụi chôn vùi bao xác người vào tĩnh mịch.

Bóng hình xưa đã tịch liêu .                          .
Trong tôi lặng lẽ bao điều miên man.

          Bao điều miên man, đôi khi, trải dài qua 12 tháng, từ tháng giêng ở Xóm Biển La Gi đến tháng chạp trên núi Mây Tào. Thời gian mải miết trôi, lặng thầm khắc ghi nỗi nhớ vào tâm trí của đứa con xa mẹ xa quê.                     
Tôi đi, nhớ dáng mẹ gầy.                            
.
Tôi về, nghe gió biển đầy tuổi thơ.                                                                                                         
          Tháng giêng về, từng đàn chim én bay qua nổng  cát trắng , hàng dương liễu xanh, đồi cỏ non tơ, đường cây lộc biếc
.Sông núi vào xuân, hồ Núi  Đất sương pha, rừng Thị Ngọt tròn quả, ngàn mai Tà Mon thơm hương. Người đưa hoa rừng về  mừng thọ ông bà mẹ cha, chúc tụng tuổi trẻ Phước Hội Bình An. Hạt trăm năm cũ của tổ tiên như vẫn nở đầy màu xuân trên quê hương La Gi.                  .                                                                       .   
         Gió bấc tháng hai hiu hiu thổi qua động cát Tiên Sa, ruộng nước Bưng Ngang, cánh rừng Thầy Thím làm rụng hạt mai già, làm tím sắc hoa mua, làm chua thêm lá dang xanh, thoảng hương nà hoa Tân Lý, lắt lay ánh đèn câu mực câu khơi.         
.                                            Tháng hai, trời trong trăng sáng, ruộng đồng vắng lặng, núi xa im lìm, chỉ còn chơi vơi tiếng nhịp gõ thuyền trôi theo khúc tình ca trên sông Dinh trầm mặc.

          Gió nồm tháng ba đưa mây ngang trời thổi rơi  hạt mưa. Mưa sớm ủ mọng lúa trỉa trăm ngày Ba Thăng Ba Thắc,nứt xanh những nổng mạ non                           .
          Nước thấm vào đất đai, đánh thức luống dưa rẫy bắp, hồng ửng trái mây, tròn xanh thanh trà, bung chồi lau sậy, gọi đàn chim xa về hót vang truông rừng cổ thụ.                             
.
          Nước ngầm nuôi rễ cây rừng, dưỡng đất cho bao mùa vàng.  Nước qua Láng Đá, ngập hồ Núi Đất, tràn  đập Đá Dựng vào đồng Bình An  Phước Hội, Bưng  Tràm Bàu Sen.
          Nước nuôi Suối Sâu, một dòng xanh giữa đôi bờ hoa, từ rừng Dinh Thầy chảy qua đất Ngảnh. Suối ngấm sâu nước mạch nước nhĩ, lọc ra Nước Ngọt Nước Trong  tụ thành Giếng Nguồn Chung bên bãi bờ Cát Mặn. Một dòng trong biếc êm trôi, men theo bìa rừng chân động, lách qua nương rẫy Vườn Đào Khe Đước Xóm Chài đổ vào Ba Bến .                                       
                
         
Một dòng xanh đôi bờ hoa,                   
.
Đem hương rừng vắng về qua đất chờ          
.                     
Đem vào ta cả hồn thơ,               
.      
Để ta làm sóng ru bờ quê hương
       

          Tam Tân, Ba Bến, Kê Gà Cửa Cạn  Đá Chim, một vòng cung biển nằm giữa Mũi Điện Mũi Tàu, một miền quê thơ mộng yên bình. Gió vi vu quanh mùa thổi xanh đồi dương liễu. Sóng rì rào vỗ về gộp đá rêu rong. Hải âu từng đàn lượn qua vụng biển bay xa về chân trời. Cò trắng nghiêng cánh về Bưng Ngang Hồ Núi. Khói lam chiều  bãng lãng vươn lên từ bếp lửa ấm bên bờ cây, dưới mái lá cành nôm, trong gian nhà vách gỗ lâu đời..                                .                    
          Người hành hương men theo lối mòn quanh chân Động Sầm đồi Mai Đỏ Ngọn, dưới tán dầu um tùm đong đưa lan rừng, vào Dinh Thầy Thím lắng nghe tiếng mõ tụng kinh, mong tìm phút giây an tịnh. Lữ khách, đôi khi trọ lại Mõm Đá Chim an dưỡng tâm linh, đôi khi dừng chân bên đài Ngô Đức Tốn nghĩ về người tù Côn Đảo vượt ngục về đây dạy học, đôi khi ghé thăm mộ nhà thơ Nguyễn Ngu Í, ngẫm lại huyền thoại Hòn Bà Núi Ông, nghĩ về mạch nguồn tĩnh tại Sông Dinh.   

         Sông Dinh xanh từ La Ngà xuôi về La Dạ La Gi qua ngang những cánh rừng già âm u, những bờ lau sậy tre già trúc thẳng, những hàng phi lao vi vu theo gió nồm gió bấc.                      .               Sông ngập ngừng bên bến nước Cầu Cây Láng Gòn Châu Thủy, qua đập Đá Dựng vườn Anh Đào Tân An, đò ngang Sáu Say Tân Lý, đò đầy Tân Long, bến thuyền Xóm Câu Chợ Cá, Kè Cảng Lagi.         Thấp thoáng trên đôi bờ những đồi sim cỏ cú mai rừng, nà dừa liếp khoai nương rau ruộng lúa ven sông,những túp lá tời mộng mơ,những tiểu am bàn thiêng  nơi xóm mạc thôn xa.                      
         Ngày tháng trôi đi, nước sông cuối dòng bồi một  cung đất mở rộng Phố Biển. Những Xóm Cát, Xóm Câu, Làng Chài, Bến Đước, Bến Ghe, Bờ Neo thuyền thúng, những quán cóc Đèn Dầu, túp lá mái tranh khuất dần vào cổ tích.                 
                                                                        
Sông Dinh đưa nước về khơi.                        
.
Thời gian ru cát bụi dời bâng khuâng.                  

La Gi Quê Mẹ sang mùa.                                 
.
Nắng lên Phố Mới, hoa đùa thôn xưa.            
.

          Kè Cảng xi măng gom lại những Bến Đậu thuyền lẻ. Đường nhựa thay lối xưa cát lún. Cầu Đúc nối Chợ Cá Biển với Nà Hoa ven sông. Tiếng chuông nhà thờ ngân nga cùng tiếng mõ tụng kinh chùa.   

        Mái trường lợp lá lợp tranh,lớp học i tờ bỏ túi, xóm học bình dân, lùi dần vào chân núi bìa rừng. Ngội trường trụ đúc tường cao trên Dốc Tỉnh, đón học sinh khắp Bình Tuy về trọ học chung quanh Đồi Gió.               

        Đồi Gió, tên mới là Tân An, là nơi đón gió muôn phương hai mùa nồm bấc, là đồi cao xanh trước biển khơi, rừng núi, sông hồ, ruộng đồng, vườn tược.  Dốc Tỉnh, hay Đồi Gió xưa, là khu hành chánh tỉnh Bình Tuy cũ, biểu tượng cho nguồn sống và nền văn hóa của bao thế hệ cư dân La Gi.                                                                   
          La Gi, một vùng xanh mênh mông, lưu lại dấu tích bao đời: nào những La Gi, La Dạ, La Gàn, La Ngâu, nào những Tà Cú, Tà Mon, Núi Nhọn, Mây Tào, Núi Bể, Núi Ông, Hòn Bà, Động Chú, Dinh Thầy Thím, giữa Rừng Lá Rừng Dầu.

 La Gi, căt rốn chôn nhau,                                    
Tình muôn năm cũ gửi vào hồn quê

             
              Thảo Điền,2014.                                    
              TRẦN CÁT TƯỜNG.  



ĐẤT MẸ


Giữ thơm hồn Đất Mẹ.
Trống đồng vang kinh kỳ.
Hát theo người mở cõi.
Nhịp chân Trường Sơn đi.


ĐẠI NGÀN

Bao mùa đại ngàn thẳm.
Trăng treo chiều Trường Sơn.
Tựa nón người khai khẩn.
Lơ lửng xanh bên non.



NÚI CÚ

Sương lam mờ Núi Cú.
Tiếng mõ tụng kinh chiều.
Tượng gối đầu lên đá.
Rừng thiền bóng tịch liêu.



THÁP CỔ.

Hoàn Kiếm bên hồ liễu
Cố nhân gìn non sông
Tháp Bút ghi trang sử
Đài Nghiên mực Lạc Hồng.
.


La Gi, 1965
CÁT SỸ.
[Đoàn Thuận]




*

 

LA GI
BIỂN

Ru cong bờ dương liễu.
Biển vỗ về Tiên Sa
Mặn muối lòng ngư phủ.
Sâm cát vàng bao hoa.

Bấc phả hiu mùa gió.
Động cao chắn đôi miền.
Thiên Y trước trùng sóng
Trấn giữ bờ quê yên.
.
La Gi, 1965
CÁT SỸ.
[Đoàn Thuận]

 

ĐÔI DƯƠNG
VẮNG

Có một Đồi Dương xanh.
Nằm bên bờ biển vắng.
Có một người lặng thinh.
Và phong lan nở trắng.

Có phải vì mưa nắng.
Người xưa đã xa xôi.
Đâu phải đời buồn vui
Tóc ta nhiều sợi trắng.

CÁT SỸ





LA NGÂU
CHIỀU

La Ngâu về khép cửa.
Chiều vội ngã lên bưng.
Sương lạnh bay nhoà núi.
Lối hạ khuất sau rừng.

Nắng tắt chiều sâu hút.
Hồn ngày lịm vào đêm.
Trăng xưa chưa về kịp
Sông xa ru gì thêm.
.

 

CHỢ CŨ
THAY

Sân rêu hoa dại nở.
Thềm vắng một mình ngồi.
Trên cao trời xanh thẳm.
Lặng lẽ lá bàng rơi.

Lâu lắm về Chợ Cũ.
Kỷ niêm xưa xa rồi.
Bạn bè ta một thuở.
Mỗi người một phương trời.

La Gi, 1965
CÁT SỸ.
[Đoàn Thuận]


ĐỒNG THÁP

Mây về Đồng Tháp cũ.
Níu trời cánh cò bay.
Người về đâu sau lũ.
Mưa rơi hoài phương này.

Lụt trắng ngày bão dữ.
Giông gió sạt bến đồi.
Trên phù sa đất phủ.
Mầm biếc lộc sinh sôi.

 

VÀM CỎ
ĐÊM

Trăng vàng soi lên lá.
Dòng sông Vàm Cỏ xanh.
Một đường rung ánh sáng.
Yên tĩnh chiều lan nhanh.

Đồng xa tưởng người vắng.
Đất mới thơm luống cày.
Tiếng nói cười bên lửa
Nghe ấm sau bờ cây.

La Gi, 1965
CÁT SỸ.
[Đoàn Thuận]





*



TỰ NHIÊN

Khoảnh khắc tự nhiên đến.
Người xưa an nhiên đi.
Hoa đời hồn nhiên nở.
Núi nghiễm nhiên thầm thì.

 

MÂY TRỜI

Mây ngang đồi gió hú.
Che mờ bến tịch liêu.
Thấm lạnh bờ hoang dã.
Nghiêng mưa xuống bóng chiều.

 

HẠT MƯA

Hạt mưa từ bóng mây.
Tạt ướt đẫm rừng cây.
Theo suối sông về biển.
Hóa thành hơi nước bay.


NẮNG

Nắng đổ xuống sân phơi.
Nỏ cong dấu chân người.
Mẩy vàng thơm hạt thóc.
Khô trắng giọt mồ hôi.
.

La Ngà, 1968
CÁT SỸ.
[Đoàn Thuận]


 *

 

MỘT CÕI

Núi cao trong mây vắng.
Sương gió vương bên rừng.
Rễ chầm sâu vào đất.
Bóng người ngã sau lưng.


                            
BẾN PHÀ

Trăng non rụng sau đồi
Dòng sông dài về khơi.
Lửa xa mờ cây bến.
Phà gần buồn không trôi.


LỐI TRÚC

Lá trúc đầu bến đổ.
Theo mắt triều nhẹ rơi.
Hạ đầy phố huyện nhỏ.
Chậm chân về nhớ người.


CUNG ĐỜI

Chân người nhịp bước mỏi.
Nỗi nhớ chạm cung đàn.
Niềm vui lên tiếng hát
Nhật ký bụi gieo vàng .
.
La Gi, 1962
CÁT SỸ.
[Đoàn Thuận]




*

 

 CHIỀU QUÊ

Đồng xa người về hết
Gốc rạ nhớ chân chiều.
Con đường mờ núi khuất.
Dòng sông lạnh rong rêu.



CHIỀU VẮNG

Chiều phai dần như thể đi quanh.
Thuyền ai về bến liễu dương xanh.
Hoa trinh nữ khép hờ đôi lá ngủ.
Đêm xa vòi rơi nhẹ xuống mong manh.



CHIỀU PHAI

Chiều phai nắng, lạnh dòng sông
Con thuyền gác mái bềnh bồng nhẹ trôi.
Đàn chim về tổ qua đồi.
Sao mờ tịnh lắng khúc nôi niệm trầm.

ĐOÀN THUẬN




CHUÔNG CHIỀU

Chuông chiều chạm vách đá
Dội nắng xuống hoàng hôn
Lấp dấu người lên núi,
Ngân dài lạnh mấy thôn.


CỔ THI

Nắng xa dần trang giấy
Gió quên lời cổ thi.
Trà sen thơm nghiên bút.
Sách khép tiễn chiều đi.

.
La Gi, 1964
CÁT SỸ.
[Đoàn Thuận]

 

*

 

DẶM VẮNG

Quanh co dặm vắng sông quê.
Lặng trong rêu đá tiếng ve nhạt nhoà.
Lời buồn yên tĩnh trong hoa.
Bóng chiều rơi chậm thuyền xa khuất bờ.


TRÊN SÔNG

Hoa bần hồng một giải sông
Nhị bần bay tím lồng trong cây mùa.
Cuối vàm một mái chèo khua.
Giọng hò êm tưởng như lùa hương đi.



TRONG SƯƠNG

Bấc mang rét lạnh đông về.
Hoàng hoa ánh nắng thu hề đã phai.
Giọt hương ướp trắng sương mai.
Thấm vào hồn đá hình hài cỏ cây.


TƯỞNG NHƯ

Chạm lên thềm cũ xanh rêu.
Tưởng mùa lá rụng vàng theo bóng người.
Chạm lên khoảng lặng môi cười
Tưởng như sóng vỗ một đời trong ta.

Mỹ Tho, 1962
CÁT SỸ.
[Đoàn Thuận]



*.

 

PHÁC THẢO HOA

Người phác thảo dòng thơ.
Bằng nét thư pháp cổ.
Quên đề lạc khoản nhỏ
Một buổi chiều vắng xa.

Ta phác thảo mùa hoa.
Với hương thầm cây cỏ.
Theo quảng đời lọ mọ.
Trước ngây ngô sắc màu.

CÁT SỸ

 

LÁ THU KHÔ.

Lá khô rụng vào đất.
Theo thu sầu lê thê.
Cội già nuôi mầm mộng.
Chờ hoa xưa trờ về.

Người vắng xa ngày ấy.
Qua bao mùa hương quê.
Biết còn ai mong nhớ.
Lá rụng khua lối về.

La Dạ, 1965
CÁT SỸ.
[Đoàn Thuận]


PHẬN  HẠT

Củ hạt vùi mưa nắng.
Mộng ấp ủ mầm phôi.
Chồi non lên mặt đất.
Búp nõn ngóng mây trời.

 

PHONG LAN.

Ru đời vào phong sương
Thinh không trước vui buồn,
Sắc màu quên cổ thụ,
Ngàn sau tình vương hương.



LÚA RÀI

Dé lúa rài châu thổ.
Đâu hay chuyện mất còn.
Nương thân mùa nước nổi.
Mầm xanh nứt mạ non.




HẠT MAI.

Bên chiếc lá vàng khô.
Lặng yên hạt mai già.
Biết đâu chiều xuân trước
Phía núi đã vàng hoa.


 

NỤ

Trên hoa long lanh sương.
Trong hoa trầm tư hương.
Nụ cười xanh mắt lá.
Nỗi thầm xuân tơ vương.
.
Đồng Tháp, 1965
CÁT SỸ.
[Đoàn Thuận]



*



VỀ HOA

Đâu biết bao hoa nở bên đời.
Dăm hoa nhớ đất rụng không lời.
Dăm hoa theo gió ngang trời rộng.
Hoa nào hương đọng nỗi niềm tôi.


DƯỚI HOA

Bên non ngủ hạt mai già.
Hương lần theo cỏ cây qua cõi người.
Nhựa mùa dấu kín màu tươi.
Một chiều chợt hiện nụ cười dưới hoa



HƯƠNG TRỜI

Khi ta đến, hoa quỳnh thơm nở.
Khi quay về, phố nhỏ vào khuya.
Chì có bóng cây dài im tiếng,
Và hương trời thoảng ở đâu kia.



HƯƠNG ĐÊM

Chiều thu, cúc dại nở hồn nhiên.
Mắc cở, trăng soi lặng lẽ thêm.
Hiên ngoài liễu rũ quỳnh hoa khép.
Mốc trắng sương lam ướt lá đêm.

 

*
 

 

VƯỜN CHIỀU
                                                                                         

Vườn xưa trúc biếc nắng hoa lay.
Động khuất đồi xa chim gọi bầy.
Dăm pho tượng đá hồn hoang lạnh.
Mấy cánh sen chiều hương thoảng bay.

ĐOÀN THUẬN




VƯỜN DÂU

Nắng muộn hoàng hôn rụng xuống đồi.
Vườn dâu dạ lý thả huơng  trôi.
Sương mù nghịch lá sầu đông lạnh.
Gió tối đùa hoa mắc cở chơi.

.
La Ngà, 1965
CÁT SỸ.
[Đoàn Thuận]




DẤU MÙA

Trái đất già nua hồn nhiên quay.
Cốc rượu trăm năm ai chuốc đầy.
Ngàn dâu bóng ngã chòm lên sóng.
Men mùa ru ngất phố và cây.

 

MÂY NƯỚC

Những giọt mưa rơi xuống cuối ngày.
Tăm hơi mờ mịt phía rừng cây.
Đường hoang ướt sũng bờ hoa dại.
Khói sóng bềnh bồng phận nước mây.

 

TIẾNG VẠC

Trăng đêm mờ ảo giữa mênh mông.
Tiếng vạc rơi buồn cõi sắc không.
Giật mình ngó lại đồng thinh lặng.
Ta hay bóng bụi trước dòng sông.
.
La Ngà, 1965
CÁT SỸ.
[Đoàn Thuận]



 

.

 

tranh của Bob Ross





" DÒNG SÔNG  QUÊ HƯƠNG"
_________________________________________

 
 

VỀ
MỘT DÒNG SÔNG

Xin người chậm phút qua sông.
Thuyền xưa đã mục ta không đưa người.
Bến bờ hãy chậm chiều rơi.
Để ngày tháng cũ chậm trôi theo dòng.

Bình Giang,1968
CÁT SỸ




SÔNG DINH.

Tôi yêu sông Dinh yêu lâu rồi.
Từ khi lời người ru bên nôi.
Từ khi đất vỡ thành ruộng mới.
Khi giọt mồ hôi mặn môi cười.

Nguồn sông xa mờ từ mây bay.
Từ phương La Ngà xuôi phương này.
Một dòng chảy mãi như huyền thoại.
Cho tuổi thơ ai thêm tháng ngày.

Sông bao ngàn năm trôi vào thơ.
Sông qua La Gi từ bao giờ.
Chỉ biết chậm nguồn sông về biển.
Rừng tiễn đưa sông xanh đôi bờ.

Sông mang tình xưa về bao la.
Ai hồn mênh mông buồn xa nhà.
Đầu nguồn mong nhớ Ông thành Núi.
Hòn đảo Thiên Y nhắc tên Bà.

Sông từ ngàn xưa về hôm nay.
Sông ru đời ai qua bao ngày.
Qua ngàn lau lách qua ghềnh thác.
Qua những mùa đi nước vơi đầy.

Sông đưa bao hoa đi ngàn khơi.
Hương vương theo sông về xa vời.
Những mùa nước xuống bằng lăng tím.
Tím cả hồn ai khi chia phôi.

Êm êm khuya khuya mùa trăng đầy.
Miên man sương giăng trong ngàn cây.
Bến chài gác mái con thuyền ngủ.
Ai thức cùng sông cùng nước mây.

Yêu sông quê hương yêu muôn đời.
Cho dù đò ngang buồn không trôi.
Ai về Xóm Cát, Đồi Cỏ Cú.
Sông vẫn trong tôi êm đềm trôi.


La Gi,1965
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 

SÔNG HÀN.

Sông Hàn về xuôi dòng êm trôi.
Đưa hương mùa xưa đi xa khơi.
Dưới chân Núi Bể từ muôn kiếp.
Đôi bờ cát lạnh thấm hồn tôi.

Sông đưa nguồn xuân vào muôn đời.
Ai say hoàng hoa đêm ly bôi.
Núi tan tác bể thành cát bụi.
Đá nát vàng phai một cõi người.

Mùa đi hơi đông còn mênh mang.
Len qua ngàn khe sông bàng hoàng.
Hạ đầy bấc biển sầu bóng núi.
Rừng khộp bờ lau bao thu vàng.

Trôi qua  ngàn năm mùa ly tan.
Sông Hàn ru mây xanh non ngàn.
Đất đai bồi đắp cao Núi Nhọn.
Chất ngất ngang trời ngóng xuân sang.

Tàn phai qua đi đời sum vầy.
Buồn vui đâu hay như sương bay.
Hơp tan đắp đổi tình dâu bể.
Núi Bể vơi đi Núi Nhọn đầy.

Bao dòng sông xanh xuôi qua đời.
Bao mùa thơm hương bao hoa rơi.
Núi Nhọn vương mang hồn Núi Bể.
Bên rừng mai lạnh Sông Hàn trôi.

 La Gi,1965
CÁT SỸ
[Đoán Thuận]
 
 
 

NHỮNG NHÁNH SÔNG

Những nhánh sông dài âm thầm trôi
gọi mùa xanh biếc từ xa vời.
Ta nghe gió nhớ lùa qua tóc
và cả tên người trên đôi môi.

Nước mang theo mùa ra đại dương.
Bao nhiêu hương núi vương tâm hồn.
Cỏ ngàn năm ngủ đôi bờ vắng.
Một áng mây chiều qua viễn phương.

Ta mong chim rừng xa trở lại
khi mùa mưa lạnh một phương người.
Hoa sông cây bến bao lần đổi,
ta vẫn chờ người trong đơn côi.

Những nhánh sông chiều qua đời ta.
Đâu bờ đâu bến ta mong ngóng,
và lũ chim rừng
vẫn bay xa.

Đoàn Thuận

 


MỘT BẾN SÔNG

Dù thành phố bao lần thay đổi,
vẫn không quên bến nước đò chiều,
nơi em đã qua dòng sông ấy,
cũng là nơi để lại cô liêu.

Xưa, hẹn nhau tìm về đất trọ.
Miền địa lan, một cõi yên nhiên.
Hương thanh khiết tịnh không tên tuổi.
Xa cách đời dâu bể muộn phiền.

Nếu, em về sang bờ bến cũ,
thì xin đừng gọi chuyến đò xưa.
Người đưa đò sớm thành lú lẫn,
và con thuyền mục nát dưới mưa.

Đã khuất nẻo vào hồn cổ tích.
Cỏ hoa tàn mê muội dưới trăng.
Bao lá chết rụng đầy mấy phố.
Cõi hẹn chờ nay đã lạnh băng.

Đoàn Thuận




TẢN MẠN SÔNG


Mưa chiều xưa, mưa chiều nay,
Cũng là một giọt nước đầy trăm năm.
Rơi từ thuở hạt chưa mầm,
Vẫn rơi mãi đến chỗ nằm lặng thinh.

Con sông quên mất tuổi mình.
Áng mây phổ cổ quên nghìn năm bay.
Ta trong một nỗi nhớ đầy,
Bóng hoa phượng vĩ một ngày hạ phai.

Cây dương ru bóng đêm dài.
Ta nghiêng giấc nghĩ mưa ngoài sông trôi.


ĐOÀN THUẬN


*


BẾN SÔNG

Cuối ngày nhớ một bến sông.
Đôi bờ xa thẳm vẫn mong thuyền về.
Biển mù rớt bão lê thê
Ở đâu con sóng vỗ mê man chiều

CÁT SỸ

 

 

BÊN SÔNG DINH

Lau thưa nghiêng trắng sông dài.
Con thuyền gác mái bên ngoài hoàng hôn.
Dòng trôi chia nửa dáng cồn
Hoa bằng lăng rụng tím hồn mênh mông.


CÁT SỸ
Đoàn Thuận




BẾN SÔNG MƯA

Đưa người qua bến sông mưa.
Hoa lục bình tím như chưa kịp tàn.
Chiều đầy sóng nước mênh mang.
Chợt đôi bờ rộng một tràng giang xa
.

CÁT SỸ




 tranh của Nguyễn Thanh Bình

 

BẾN CŨ

Biệt ly bến cũ bờ xưa.
Thuyền lưu giọt lệ chiều mưa thôn nghèo.
Cánh bèo mang lá vàng theo.
Sông mùa nước nổi, trời heo hút buồn.

CÁT SỸ


 

BẾN CŨ
VẮNG NGƯỜI


Ngày qua xóm mạc làng quê.
Ruộng đồng bến đỗ bờ đê bãi lầy.

Vẳng xa tu hú gọi bầy.
Đàn cò vổ cánh nhẹ bay ngang trời.
Lời ca vọng cổ  chơi vơi.
Lam thôn câu hát ru đời yên nhiên..

Sông sâu chia cách đôi miền.
Mênh mông lũ ngập đò thuyền ngại qua.
Bên kia sương khói mù pha.
Bên này nước nổi phù sa lắng trầm.

Xuồng con neo dưới bóng râm
Mong chờ người cũ xa xăm không về.
Bèo trôi liễu rũ lê thê.
Cỏ hoang hoa dại tư bề rã riêng

CÁT SỸ
Đoàn Thuân



      tranh của Bob Ross




DÒNG SUỐI
[thơ Haiku]

 
Suối từ trời cao rộng.
Từ hơi mây bay, từ mưa rơi.
Thả nước xuống núi đồi.

Nguồn họp lưu rong ruổi.
Trôi qua rừng hoang ngàn đá cuội.
Cát lắng bao dòng trong.

Bao cánh bèo bềnh bồng.
Cỏ hoa đôi bờ rong rêu biếc.
Thảo thơm hương nhật nguyệt.

Du dương tiếng chim xanh.
Róc rách hòa âm cùng thác gành.
Nơi rừng thiêng tĩnh lặng.

Suối reo theo mưa nắng.
Ngầm thấm nước rẫy nương ruộng vườn.
Lắng đọng cùng gió sương.

La Dạ,1964
CÁT SỸ

.
 
 
SUỐI TRONG

Xóm Thượng rừng La Dạ
lắng một dòng Suối Trong,
cho lá hoa bềnh bồng,
xuôi êm về Xóm Hạ.

Nước lạnh tràn gành đá,
bọt trắng pha rong xanh
róc rách dòng âm thanh,
chìm dần vào xa vắng.

Im ru một khoảng lặng,
giữa ban sơ hoang vu,
giữa mong manh sương mù,
chờ mong lời chim hát.

Tu hú gọi hoàng hạc
Gõ kiến nhịp bọng cây
Hoa rừng đưa hương bay
Trầm tích hồn sông núi.

Qua bến bờ mông muội,
Suối vẫn Trong như nhiên
lắng khúc nhạc lâm tuyền
thấm nước tươi nương mạ.


La Dạ, 1960
CÁT SỸ
[Đoán Thuận]



BÊN SUỐI ĐÓ

                                       
Một vùng Suối Đó Chùa Đây.
Màu lam chiều tiếng chuông đầy sau mưa.
Tịnh yên vào cõi vô thừa,
Không mờ sương phố, không thưa lau bờ.

Chợt vàng bướm tự ngẩn ngơ.
Dựa lưng bến ngủ, ta chờ mộng ta.

CÁT SỸ



BÊN SUỐI TIÊN

Hoa mua tím thẳm trong chiều
Một bờ suối vắng ít nhiều sương bay.
Phải đâu hồn của cỏ cây,
Sắc hương bến mộng bóng ngày tĩnh không.

Mây bay mấy độ bềnh bồng,
Phấn hoa màu cỏ lặng trong cõi người.
Một dòng trôi mãi về trời.
Giọt vô biên rụng xuống đời lặng thinh.

CÁT SỸ
[
Đoàn Thuận]



BÊN SUỐI VẮNG

Người đi đãi cát tìm vàng
Ta còn mê mải về ngàn rong chơi
Qua con suối vắng tìm lời
Gieo câu lục bát vào nơi lặng thầm

Chợt nghe bấc lạnh căm căm
Giật mình tóc đã hoa râm lâu rồi

ĐOÀN THUẬN




  
tranh của Terry Redline



HỒ TÔM.


Đêm Hồ Tôm mùa trăng loáng bạc
Tưởng mùa xưa còn đọng không gian
Trong biếc liễu hạc về núi cũ
khúc đàn rơi sâu thẳm xa ngàn

Ta như gặp mình trong cổ tích
Trăng qua đây rơi một dòng xanh
Làm con nước chạm thành sóng nhỏ
và đêm yên phổ nhạc lá cành

Từng bóng khói qua ngàn chân đước
Mây bồng bềnh thoáng hiện sao thưa
và bụi nước xoáy tròn hư ảo
Hư ảo trời hư ào hồ khuya.

Hồ Tôm, 1973
CÁT SỸ

 

HỒ NÚI ĐẤT XƯA.

Cuối trời mây lửng lơ qua.
Nồm đưa con bấc phong ba xa ngàn.
Hồ Tôm, Núi Đất, Bưng Ngang.
Giếng Thầy, Xóm Rẫy bàng hoàng mong mưa.

Khói chiều vương khóm lau thưa.
Thanh trà tròn quả đong đưa bên rừng.
Trái mây hồng ửng triền bưng.
Dăm con bói cá như ngừng cánh bay.

Có ai trỉa lúa trăm ngày.
Hạt Ba Thăng ủ mọng đầy non xa.
Nước ngầm dưới bóng mùa hoa.
Nước tràn Láng Đá nước qua đồng chiều.

Rễ rừng hạt đất chắt chiu.
Bao nhiêu giọt nước bấy nhiêu mùa vàng.
Mặt Hồ Núi Đất mênh mang
Lặng thinh soi bóng mây ngàn phân vân.

Hoa dầu từng cánh bâng khuâng
để bằng lăng tím bao lần vương hương.
Con chim về hót cuối truông.
Núi Tà Cú khuất trong sương mờ dần.

Khói lam chiều Ngảnh Tam Tân.
Vương vương sợi nhớ theo tầng mây xa.
Một dòng xanh, đôi bờ hoa
Đem hương rừng vắng về qua đất chờ.

Đem vào ta cả hồn thơ.
Để ta thầm hát ru bờ quê hương.

Hồ Núi Đất, 1994
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]




MẶT HỒ

Đồi xa cây xác xơ thu.
Mặt gương hồ lắng cỏi u minh này.
Điệu buồn rót mỏi trên tay.
Mưa rơi xóm hạ vắn dài mái rêu.


ĐOÀN THUẬN



*
 



 

HỒ NÚI

CHIẾC LÁ


Cây thu thả chiếc lá vàng
xuống hồ Núi Đất, bên ngàn Rừng Dong.
Sương pha, gió nhẹ, nước trong.
Lá men Bến Cỏ vào dòng Suối Sâu.

Con chim bói cá cúi đầu
thương duyên lá thắm phai màu tình xanh.
Nghiêng nhìn bóng nước long lanh
soi buồn lá ướt vượt gành rêu rong.

Giã từ Núi Đất Rừng Dong
Thân tàn phận úa phiêu bồng về đâu ?
Đồi Sầm Động Dứa Bãi Dâu
Phong lan cúc dại như sầu biệt ly.

Hồ Núi Đất, 1972




HỒ NÚI

TỨ LA.

Bè tre lướt nhẹ qua hồ,
dưới chân Núi Đất, bên bờ Rừng Dong.

Một vùng như thể tĩnh không.
Như tranh thủy mặc, nước lồng bóng mây.
Nghe xa tu hú gọi bầy,
Cùng âm gõ kiến, tiếng chày cuối truông.
Gió ru dăm cánh hoa muồng.
Hồn nhiên buông thả ngọn nguồn thu phong
Sương pha trắng giữa mênh mông.
Lá men Bến Cỏ vào dòng Suối Sâu.

Con chim bói cá cúi đầu.
Thương duyên lá thắm phai màu tình xanh.
Nghiêng nhìn bóng nước long lanh
Soi buồn lá ướt vượt gành rêu rong.
Giã từ Núi Đất Rừng Dong
Thân tàn phận úa phiêu bồng về đâu ?
Đồi Sầm, Động Dứa, Bãi Dâu.
Phong lan cúc dại úa sầu vấn vương.
Tứ La, bốn bạn tha hương,
nhịp bè hát khúc Trúc Phương, “Đò chiều”.
Giữa hồ Núi Đất quạnh hiu,
nhớ đêm La Dạ, nhớ chiều La Gi.

La Gàn nhớ bóng chim di.
La Ngâu nhớ đảo Thiên Y, Hòn Bà.
Núi Ông tọa Đức Linh xa,
Sông Dinh nối cảnh “ly gia” biển trời.

Tứ La tưởng nghĩ không lời.
Lòng thầm cảm tạ đất trời quê hương.

Hồ Núi Đất, 1972
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]



*
 
* ĐỒI NÚI *


tranh của Albrecht Durer
 VỀ
ĐỒI GIÓ

_______________________
Đoàn Thuận


         
           Dốc Tỉnh từ ngàn xưa mang tên Đồi Gió. Gió Nồm ru hạt mưa rơi trên những khu vườn cây xanh, nương đồi ruộng rẫy, những xóm mạc bình yên. Gió Bấc hiu hiu thổi từ biển xa, qua bờ dương liễu về Núi Nhọn Mây Tào, ru bao cánh chim bay muôn phương.    

          Đồi Gió như một tâm điểm giáo dục, nằm giữa trung tâm hành chánh của tỉnh Bình Tuy. Tháng Chín là mùa tựu trường. Học sinh áo trắng khắp nơi tề tựu về Xóm Học, khởi đi từ xóm đạo Đồng Tiến, vòng qua ty Giáo Dục, lên Đồi Sim, xuống Suối Đó về Trung học Bình Tuy.                      .
        
           Từ Đồi Gió, từng lớp trẻ, với đôi mắt thanh xuân vầng trán thông minh,  theo bước cha ông, đi cấy trồng những mùa xanh trên Đất Mẹ La Gi               

                La Gi, 1972.                                        .
                CÁT SỸ
                      .


.

ĐỒI GIÓ

1.
Ban sơ ngọn Đồi Gió
Dưới mây trời quê hương,
Trước mặt bờ Đại Dương
Sau lưng cánh Rừng Cọ.

Bên Sông Dinh, Suối Đó,
Đá Dựng bờ Anh Đào
Vườn Trầu lựng hương cau,
Thôn Dâu tơ tằm nhả.

Dân quê, người chằm lá.
Người đan lát tre mây.
Người làm rẫy làm cây.
Sống bình an thân thiện.

2.
Tỉnh Bình Tuy thêm huyện.
Thêm nhà thương, nhà thờ.
Đồi Gió xưa xanh lơ.
Mang khai sanh Dốc Tỉnh.

Tôi một chiều thanh tịnh
về đất Mẹ thân thương
nghe bấc lộng ngàn phương
thầm nhớ về Đồi Gió.


Tân An, 1972
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 

ĐỒI CỎ CÚ

Xưa, lên đồi cỏ cú.
Thả hồn ta theo mây.
Thả trâu về đồng vắng.
Tuổi thơ trôi từng ngày.

Qua bao đồi cỏ cú.
Qua dặm đường gập ghềnh.
Bạn chơi ngày đồng nội.
Còn ai nhớ ai quên.

Giã từ đồi cỏ cú.
Buồn nhớ chị chiều xưa.
Về quê chồng xa lắc.
Con đò dòng sông mưa.

Về thăm đồi cỏ cú.
Quê ngoại chưa vào thu.
Lúa đồng còn xanh mạ.
Tóc Mẹ đã sương mù.

Còn đâu đồi cỏ cú.
Giờ, Cha cũng xa xôi.
Chỉ còn chân trời thẳm.
Áng mây trôi muôn đời.

Tân An,1964
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 


ĐỒI HOA SIM

Đồi Sim trời mưa mãi
khúc nhạc chiều mùa đi
một đóa hồng nhung đỏ
Suối Đó trôi thầm thì.

Tôi như một du tử
lưu lạc nơi chân trời
nhớ con đò Tân Lý
sông Dinh mùa êm trôi

Đóa hồng lặng lẽ nở
khúc nhạc rừng êm du
đồi Hoa Sim mưa mãi
hương sim bay mơ hồ.

Năm tháng không ở lại
khúc nhạc chiều mùa đi
một đóa hồng nhung đỏ
bên suối mưa thầm thì

 

ĐỒI DƯƠNG

Ta từ trong cõi hồn nhiên.
Về nương thân ở một biên cương này.
Suối còn mơ dáng mây bay.
Người ao ước sống những ngày bình yên.

Gió lan man thổi một miền.
Biển hư ảo ánh lửa thuyền xa khơi.

Mưa ngâu hay sương khuya rơi.
Ngoài kia ướt lạnh một đồi dương đêm.

ĐOÀN THUẬN




ĐỒI DƯƠNG XƯA



Bên bờ La Gi biển,
Có một Đồi Dương xanh,
Sóng vỗ dài âm thanh,
Trên sâm vàng cát trắng.

Huyền thoại thời hoang vắng.
U hoài tình “ly gia”,
Dinh Ông xa Đảo Bà,
Qua bao mùa biển lặng,

Có phải vì mưa nắng
bao người đã xa khơi.
Có phải vì buồn vui,
tóc tơ nhiều sợi bạc.

Thùy dương theo gió hát.
ru đời vào mênh mông.
Một con đường vắng không.
đưa nhau về cõi nhớ.

 La Gi 1962
CÁT SỸ

 

DỐC SƯƠNG MÙ.


Dốc mù sương kín non xa.
Vội người, ta chẳng vội qua từng chiều.
Chợt nghe thung dưới đìu hiu.
Cánh chim về khuất bóng xiêu lối rừng.

Dốc mù bay gió qua bưng.
Ngựa nhoài vó, cát bụi chừng ngủ yên.
Mây chao bóng xuống một miền.
Và mưa nắng gửi ưu phiền lại ta.

Dốc đời còn ở thật xa.
Và ta đi mãi chưa qua hết mùa.
Nắng đầy lên cánh hoa mua.
Thoáng bâng khuâng cũ nhẹ khua trong hồn.

Chuyến xe đổ nhịp về thôn.
Đá lên rêu, phố hoàng hôn lên đèn.
Bên đồi một đốm lửa nhen.
Ta nghe ta gõ bước quen dốc đời.


Tân Hải, 1964
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]





TRÊN ĐỒI DƯƠNG

Ta từ trong cõi hồn nhiên.
Về nương thân ở một biên cương này.
Suối còn mơ dáng mây bay.
Người ao ước sống những ngày bình yên.

Gió lan man thổi một miền.
Biển hư ảo ánh lửa thuyền xa khơi.
Mưa ngâu hay sương khuya rơi.
Ngoài kia ướt lạnh một đồi dương đêm.

Ngảnh Tam Tân, 1970
CÁT SỸ
[ĐOÀN THUẬN]




    tranh cua Antonio Tano



TÀ CÚ


Tà Cú sương mờ núi.
Chiều đổ giọt chuông rơi.
Chùa khuất lưng chừng biếc.
Hoa bay lấp dấu người.

Tà Cú,1967

NÚI CÚ

Sương lam mờ núi Cú.
Tiếng mõ tụng kinh chiều.
Tượng gối đầu lên đá..
Đường thiền bóng tịch liêu.

Chuông chiều chạm vách đá.
Dội nắng xuống hoàng hôn.
Lấp dấu người lên núi.
Ngân dài lạnh mấy thôn.

Mây ngang đồi gió hú,
Che mờ bến quạnh hiu.
Thấm lạnh bờ hoang dã.
Nghiêng sương xuống bóng chiều.

Chân người nhịp bước mỏi.
Nỗi nhớ như cung đàn.
Buồn vui lên tiếng hát.
Nhật ký bụi gieo vàng.

Tà Cú,1967


CHUÔNG CHÙA

Chuông chiều rung trúc biếc.
Lay bóng dã quì vàng.
Theo cỏ thơm lên núi.
Hoa rụng buồn thu sang.

Tà Cú,1967
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]



DƯỚI CHÂN TÀ CÚ

Chiếc lá vàng khô rụng cuối sân.
Ru đưa thu muộn nghe xa dần.
Tường vi mới nụ còn e thẹn.
Nguyệt quế vừa hương cũng ngại ngần.
Giếng cũ mưa ngang bờ đá bạt.
Chùa xưa núi khuất giọt chuông ngân.
Chiều đi bóng đổ buồn cô tháp.
Cỏ lấp đường hoang lấm bụi trần.

Tân Thành, 1973
 
 
ĐẢO  

Hòn Bà, đảo nhỏ giữa trùng khơi.
Tựa mảnh Thiên Y của đất trời.
Phủ xuống đầu gành sâu chới với.
Choàng lên ngọn sóng nổi chơi vơi.
Cây nghiêng bóng nước hoa tàn rụng.
Đá lắng hồn mây sương nhạt rơi.
Bến mộng thuyền neo mùa biển lặng.
Tiếng chuông chùa cổ vọng muôn đời.

La Gi,1966



GIẾNG THẦY

Tháng sáu mưa rơi trắng Giếng Thầy.
Tôi về lủi thủi dưới trời mây.
Đồi hoang lá rụng đầy đường cỏ.
Động vắng rêu lan lấp dấu giày.
Tiếng mõ xua đi hơi đất lạnh.
Lời kinh chạm nhẹ bóng rừng dày.
Tưởng vào cõi tịnh tâm nhàn nhã.
Chợt thấy chưa qua cuộc tỉnh say.

Tân Hải,1972
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]




*






tranh của Abraham Pether



BẾN BỜ
_____________________________________




BẾN CŨ


Biệt ly bến cũ bờ xưa.
Thuyền lưu giọt lệ chiều mưa thôn nghèo.
Cánh bèo mang lá vàng theo.
Sông mùa nước nổi, trời heo hút buồn

ĐOÀN THUẬN






   tranh của Gleb Goloubetski

BẾN THÔN



Dặm ngàn thôn vắng quạnh hiu.
Một bờ thủy mặc buồn thiu bến thuyền.
Tìm đâu một cõi đào nguyên.

Ta mong được phút an nhiên.
Trong cô đơn giữa một miền hoang vu.
Bóng ai khuất mãi mịt mù.

Chỉ còn lá úa vàng thu.
Rụng đầy lối hạ qua khu rừng già.
Vương mang một thoáng hương hoa.

Từ xa vọng lại âm ba.
Tiếng chim khách nhỏ ngân nga lạnh lùng.
Nhòa vào sương gió mông lung.

Bến thôn nương rẫy dưới thung.
Con thuyền độc mộc neo cùng bè tre.
Giữa lòng tĩnh lặng sơn khê..

ĐOÀN THUẬN




ĐÊM PHI TRƯỜNG


Người đi về cõi tha phương.

Đêm phi trường lạnh, mưa buồn sân ga.
Tình đời sum hợp tan xa.
Cầm bằng như cánh hạc qua chiều vàng.

ĐOÀN THUẬN

 


Ở MỘT GA XÉP

 

Con tàu mang nỗi nhớ qua.
Nhớ, ta nhớ cả đường xa phố gần.

Không mong, chiều cũng hao dần.
Không mong, người đã có lần quên ta.
Tàu dừng, tàu lại rời ga
Người đi, người để lòng ta lạnh đầy.

Xưa nơi lũng phả sương dầy.
Bên nhau ấm giấc mộng đầy hương hoa.
Giờ nhìn từng chuyến xe qua.
Lắng chuông chùa cổ, ngẫm ra mơ hồ.

Ngồi buồn ngắm ngón tay thô.
Lanh canh ly đá nghe khô khốc chiều.
Còi tàu xa hút phiêu diêu
Còn đây ga xép ít nhiều bụi bay.  

Ga Sông Phan,1964
ĐOÀN THUẬN





GA VẮNG


Ta ngồi đây giữa ga truông
chống tay cằm ngó sương buông ngoài thềm
một đêm này nữa bao đêm
một thân cát bụi đã mềm nắng mưa.

Ga khuya quán lạnh gió lùa
đèn leo lét bóng như vừa chiêm bao
bây giờ những nặng mai nào
nỗi niềm xưa chật hồn bao lâu rồi.

Đường cây bóng đổ chơi vơi
tàu đi còi rúc nhỏ hồi tiếc thương
xuống đây thức suốt đêm trường
một mình phố lạnh, một đường chia ly.

Nghĩ ta bến mộng thầm thì
trót sinh lầm lỡ tuổi chi muộn phiền.

Ga Bình Triệu, 1964
ĐOÀN THUẬN





GA CHIỀU

1.
Sương bay nghiêng phố ga chiều
tàu xuôi bỏ dại bóng xiêu bước về
một bờ hoang đá xanh khe
âm u tiếng gõ kiến nghe cuối rừng.

Dã quì vàng suốt mấy thung
người xa buổi nọ chập chùng bao thu
trả cho người phố sương mù
trả cho ta buổi nắng thu mấy trời.

Nỗi buồn ru đến chơi vơi
lặng trong tình cũ một đời xót xa.

2.
Dường như người tiễn đưa ta
về miền đất cũ nhặt hoa phố phường
nụ cười lẫn khuất trong sương
áo bay trắng cuối dặm đường cỏ lau.

Hương mùa thu muộn phai mau
thản nhiên thềm gạch biếc màu rêu phong
tháng ngày tuột xuống mênh mông
bên bờ chiều tạnh tịnh không dấu người.

Bình Triệu,1966
ĐOÀN THUẬN


 


    tranh của Kha Trung



BẾN PHÀ


Trăng non rụng sau đồi
Dòng sông dài về khơi.
Lửa xa mờ cây bến.
Phà gần buồn không trôi

ĐOÀN THUẬN




BẾN ĐỔ


Thuyền neo bến liễu đìu hiu.
Hoa bằng lăng rụng tiêu điều bến sông.
Hàng cây đổ bóng xuôi dòng.

Bao lần hạ bạt thu không.
Mấy mùa bão lũ đục trong nước nguồn.
Lửng lờ một mảnh trăng suông.

Người đi khuất nẻo đường truông.
Đò ngang gác mái bên xuồng câu đêm.
Chờ mong, hình bóng xa thêm.

Gió ru hoa cỏ êm đềm.
Trăng mờ soi lạnh mặt thềm đá hoang.
Lặng thinh sông nước mơ màng.

Đâu còn ai bước sang ngang.
Xóm chài sạt lở điêu tàn bấy lâu.
Đò đưa thay mặt chiếc cầu.

ĐOÀN THUẬN




BÓNG THUYỀN ĐÊM


Tung chài vớt một vầng trăng.
Trong vô cùng đã lạnh băng hồn mùa.
Môt chiều thu lá khô khua.
Và một khuôn mặt tóc lùa che ngang.

Từng ngày vó ngựa bàng hoàng.
Chuyến xe thổ mộ qua ngang phố dài.
Dù ai lở bước hôm mai.
Trương Chi vẫn thả thuyền ngoài sông đêm.

ĐOÀN THUẬN




CHUYẾN ĐÒ MUỘN


Thuyền nan đỗ muộn chuyến đò quê,
Khách lạ dò tìm đất trọ thuê.
Ngõ cụt vườn hoang đêm vội xuống,
Đường mòn cỏ lấp dấu chân về.
Lò mò lạc mãi bờ tăm tối,
Lẩn thẩn lầm hoài bến mộng mê.
Với túi hành trang đầy cát bụi,
Ngồi buồn dưới liễu rũ lê thê.

ĐOÀN THUẬN





LỠ PHÀ


Lỡ phà qua bến nước xa.
Một tràng giang tím màu hoa lục bình.
Sắc bèo lẫn sắc rêu in.

Lối mòn đá sỏi lặng thinh.
Dấu giày dẫm cát một mình bóng ta.
Tìm nơi trọ dưới chiều tà.

ĐOÀN THUẬN














SÀI GÒN

TÔI
______________________________
Đoàn Thuận




SÀI GÒN và TÔI

Sài Gòn,
Những con đường tuổi trẻ đi qua
sân trường Chu Văn An Trưng Vương Văn Khoa
màu phượng đỏ cháy trong hồn áo trắng
Văn hiến ngàn năm ánh hoàng hoa.

Những con đường cùng ai xe đạp con
dưới vòm lá me non
đưa nhau về hoa mộng
buồn vui mênh mang giữa mất còn .

Sài Gòn,1969
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]






SÀI GÒN
trong
TÔI.


Sài Gòn đất phố, tôi du cư.
Từ quê La Gi, sau năm tư.
Thư sinh áo vải vào trọ học.
Tập tành tìm hiểu lẽ thực hư.

Tôi được lớn khôn nơi Sài Thành.
Từ trẻ chăn trâu được học hành.
Được quyền mơ ước làm thầy giáo.
Nhờ sự dưỡng nuôi của dân lành.

Từ đây, từng bước vào cuộc đời.
Dù bao oan trái vùi dập tôi.
Trước cảnh gian truân, vẫn đứng thẳng.
Vẫn giữ tâm an, dù đổi dời.

Thầm mong đi theo đường bút nghiên.
Theo nền giáo dục cùa tổ tiên.
”Nhân bản dân tộc và khai phóng”.
Trong tầm đạo lý của thánh hiền.

Nghỉ hưu, tôi lại vào Sài Gòn.
Sau thời lưu lạc qua núi non.
Trú tạm Thảo Điền, đất trọ cũ.
Tha phương, phận mỏng thân mỏi mòn.

Thảo Điền, 2008
ĐOÀN THUẬN

 


         
Chợ Bến Thành


SÀI GÒN
NHỮNG NĂM 60

1.
Sài Gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông, những năm 60
mượt mà ánh điện dấu kín nụ cười
chợ Bến Thành như toa tàu trăm năm đỗ lại
trước bùng binh Quách Thị Trang dòng xe và nguời.

Ngày cuối tuần bát phố qua cửa hiệu sang
đêm dìu nhau qua đường vắng ánh đèn vàng
sa-lông Adam, động Eve, thì thầm tình cổ sử
đôi người Tây già trầm ngâm giữa phai tàn

Đường Catinat, phố Charner và đâu đó lính viễn chinh trở lại
những bước chân vội dưới ánh lửa hỏa châu
quán cóc vĩa hè, ngồi quen thuộc phu xích lô, phu khuân vác
thổi cà-phê đĩa, đọc báo cọp, tán gẫu chuyện bể dâu.

Ngày hụ dài tiếng còi tầm Ba Son
thợ thuyền công chức, sinh viên học sinh, bánh xe quay tròn
con đường xanh từ Cần Thơ Tây Nguyên Huế Đà Lạt
về tụ điểm Saigon..

2.
Sài Gòn,
phố dinh thự biệt điện villa
hành lang Eden thương xá Tam Đa
vũ trường Maxim, Đế Vương Nhất Dạ
nhà hàng cửa hiệu Pháp Ấn Việt Hoa.

Phố trưởng giả cự phú tướng lãnh đại quan
sân cỏ bồn hoa vườn cảnh phong lan
khung cửa rèm buông điệu cười luân vũ
ngực trần bồng lai ân ái đêm vàng.

Sài Gòn, cầu không vận viễn chinh
ngày đêm rầm rập tiếng giày đinh
Hàn, Phi, Thái, Mã, Tân Tây Lan, Mỹ, Úc
đồ hộp đô-la đàn áp biểu tình.

Phố bán xôn Ngã Tư Chợ Trời
khu Dân Sinh bán đủ thứ trên đời
khổ kẻ bán trôn, giàu lũ bán nước
bán thánh thần mua bom đạn đủ kiểu ăn chơi.

Phố nhạc bập bùng lầu cao
cuồng say thân xác vũ điệu màu
đêm Châu Mỹ vọng buồn qua khúc hát
tiếng kèn đồng vong quốc gào đêm thâu .

Phố Chiều Tím Quán Gió Đêm Màu Hồng
đời như thể hư không
ly tách chạm điếu thuốc tàn môi lệch
Khúc Da Vàng ai ru hồn non sông

3.
Sài Gòn,
phố hẻm sâu nhà gầm cầu
nơi những người không biết đi đâu về đâu
che chắn đời nhau bằng cuộc sống thuê mượn
thiếu ăn, thừa lạnh, đầy đủ lo âu

Phố kênh đen của người tay trắng
mục rã chân sàn lắt lay qua mùa
nhà thuyền đậu dập duềnh giông bão
rác và người và chó đói chung sống nắng mưa

Phố của người tàn phế đánh giày mồ côi ăn xin
lang thang ngày xó chợ đêm co ro phố buồn
cuộc sống quặp vào nỗi lo sợ
vắt kiệt sức bấu chặt lấy quê hương.

4.
Sài Gòn,
những con đường rợp bóng cây
không hơi đông không heo may
nắng, một mùa, rụng vàng bên mái phố
mưa, một mùa, vội thả lá xanh bay.

Những con đường mang tên cổ nhân
Lê Lợi Quang Trung Hàm Nghi Duy Tân
đêm không ngủ, xuống đường, đọc Hịch Tướng Sỹ
mơ cờ đào Nguyễn Huệ, mộng Văn Thân.

Sài Gòn,1969
CÁT SỸ

 



MƯA TRÁI MÙA SAIGON

Cơn mưa trái mùa làm khát thêm mặt đất.
Hơi nóng bốc khô đọt mai non.
Làn nước rút mau vào nơi nao góc khuất.
Lốm đốm bụi đường vẽ hoa mặt hẻm con.

Hạt mưa rơi êm trên mái ngói.
Một điệu blues rời nghe quen mênh mang.
Chạm hờ khoảng lặng đàn chim sẻ.
Nhịp cánh nhẹ bay theo chiều vàng.

Dường như rêu hoang ngoài thềm vừa thức giấc.
Kẻ nứt tràn mưa loang lổ giữa bức tường.
Nhìn xa mường tượng một bức tranh thủy mặc.
Khe suối xanh đổ vào hồ liễu dương.

Mưa rào tạt qua Saigon phố cũ.
Tưởng chiều xưa em dạo chơi vườn hồn ta.
Giọt mắt buồn rơi quên trong trí nhớ
Giọt mưa trái mùa của bao mùa thu xa

Đa Kao,1968.
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]



            Nhà thờ Đức Bà  [tranh của Crispin]

 

XÓM CŨ


Mưa ngâu phơ phất xóm nghèo.
Với bông vắp trắng gió heo may lùa.
Trong chiều tím ngát hoa mua.
Lập thu tháng bảy đón mùa Vu Lan.

Bàn thiên bên cội điệp vàng,
Am mây lư đất khói nhang hương trầm.
Chùa xa tiếng mõ lặng câm.
Vẫn như tụng niệm thì thầm kinh đêm.

Ước mong quê Mẹ êm đềm
Dù đời sương gió đã mềm nắng mưa
Mặn nồng tình cũ nghĩa xưa.
bà con nương tựa bao mùa bên nhau.

Khai hoang ruộng lúa nương rau.
Gò cây hoa vắp, rạch hào đầm sen.
Chung tay nuôi trẻ sách đèn.
Cho dù bão tố bao phen dập vùi.

Người đi kẻ ở ngậm ngùi.
Xa quê lòng vẫn không nguôi lời nguyền.
Đất trời có lúc đảo điên.
Quyết chung thủy với tổ tiên Lạc Hồng.

Hạnh Thông Tây, 1965

CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]



 




NGÔI ĐÌNH CỔ.


Ngôi đình cổ nhất Sài Gòn.
Qua bao thế kỷ vẫn còn vẹn nguyên.
Đình Hạnh Thông, một cõi thiền.
Trên gò cây Vắp trong miền hoa xoan.

Đình thờ hai vị Thành Hoàng.
Hai vị “Thủy tổ khai hoang” đất vườn.
Đông Chinh Vương, Dục Thánh Vương.
Con Lý Thái Tổ bị vương triều đày.

Vô Nam lập Hạnh Thông Tây.
Từ vùng An Hội nối dài Hạnh Thông.
An cư cho một cộng đồng.
Xóm làng, vườn tược, bến sông, rạch hào.

Gò cây hoa Vắp trên cao.
Thành làng Gò Vắp sắc màu địa phương.
Chúng sinh thắp những nén hương.
Lập Đình thờ phụng Thần Vương thiên triều.

Gò Vắp, 1964
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]



 

 

NHÀ THƯƠNG XƯA


Nhà thương Chợ Quán cổ xưa.
Năm đầu tạm bợ lưa thưa giường nằm.
Nhờ người từ thiện hảo tâm.
Góp công góp của thăng trầm dựng xây.

Dựa theo kiến trúc phương Tây.
Từ nhà chật hẹp từng ngày rộng ra.
Bệnh nhân đủ loại, trẻ già.
Nhân viên y tế Lang Sa, Ta, Tàu.

Và rồi ba chục năm sau.
Đổi tên thành Viện Bài Lao Ngô Quyền.
Một nhà thương thí rất chuyên.
Ho lao hen suyễn nhiều miền về đây.

Thường dân bệnh hoạn lâu nay,
Thuốc Nam thuốc Bắc qua ngày ốm đau.
Thuốc Tây trị liệu bài lao.
Nhà thương Chợ Quán cứu bao dân nghèo.

Chợ Quán,1964
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]



 

 

 

MỘT BẾN BỜ


Bình Giang, sông xưa Saigon, xuôi dòng
nối dài Bến Nghé bờ An Lợi Đông.
Đò ngang Thủ Thiêm về thôn Giai Quí,
vùng trũng Nghĩa An, bán đảo cung sông

 

Miền đất ngoại thành xanh màu hoang sơ.
Dừa nước, lác bàng, bần đước, ô rô.
Bèo nổi đầm lầy, lúa rài cỏ dại.
Ngỗ điếc ao chum, sen súng mương hồ.

Bao người không nhà lưu lạc muôn phương
về đây chung lưng khai hoang ruộng vườn.
Đò dọc đò ngang, dù nhiều sóng gió.
Nghĩa xóm tình làng đong đầy quê hương.

Cư dân yên vui theo mùa mênh mang.
Bàn thiên am mây hương hoa điệp vàng
Tu viện nhà thờ giữa lòng xóm đạo.
Lời cầu kinh đêm ru mộng bình an.

An Lợi Đông 1964

CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]






LÀNG HOA


Làng Hoa, nắng mới vừa lên.
Hương theo gió sớm bồng bềnh từng không.
Vùng trời Gò Vắp mênh mông.
Cư dân An Hội tận lòng thảo thơm.

Trồng hoa đâu chuyện áo cơm.
Những mong đem lại hương thơm cho đời.
Đường hoa du khách dạo chơi.
Sắc màu hình dạng thay lời hân hoan.

Tóc tiên tầm gửi phong lan.
Hải đường dạ lý cúc vàng lưu ly.
Quỳnh ngâu dương xỉ dã quì.
Mai mơ sứ huệ sung si sen hồng.

Sống đời vạn thọ xương rồng.
Cảnh hoa Hòn Ngọc Viễn Đông, Sài Gòn.

An Hội,1964

CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]



 

 



VƯỜN RAU


Ban sơ xóm ruộng thôn xưa,
dân quê sinh sống bao mùa buồn vui.
Khi no ấm, lúc ngậm ngùi,
tình làng nghĩa xóm, không nguôi lời nguyền.
cầu mong nước Việt mọi miền,
đồng bào Âu Lạc bình yên thiện hòa.


Vườn Rau khai phóng đường hoa,
đón người khắp chốn gần xa tụ về:
di cư di tản xa quê,
tha phương lưu lạc bộn bề gió sương.

Đến đây dựng ấp lập phường:
lời kinh An Lạc, rau vườn Lộc Hưng,
món ăn Cà Láng, Tương Bần
phố nhà Nam Thái, Chấn Hưng, Nghĩa Hòa…

Thăng trầm thế sự trôi qua
Vườn xưa phố mới chan hòa nghĩa nhân.

 

Phú Lâm,1965
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]





            tranh của Hà Huỳnh Mỹ



HÀNG RONG
nơi
XÓM TRỌ

Xóm trọ thường nghe hàng rong rao,
”Ai khoai đậu…bắp”. “Ai su…hào”.
Âm thanh nhỏ nhẹ tựa lời Mẹ
ru con thơ dại một thuở nào.

Người bán hàng rong như Mẹ già,
mong con ăn học theo tinh hoa,
thành người tài đức, có kiến thức,
giúp ích cho đời, cho quốc gia.

Bao gánh hàng rong rao đêm ngày
kiếm thêm thu nhập, thoát nợ vay
hàng bán giá rẻ, biếu gia vị,
giúp người lỡ độ sống đủ đầy.

Người già bưng xách, trẻ gánh gồng
đôi khi long dong, chưa thong dong,
nhưng luôn tương trợ cùng vui sống,
tình làng nghĩa xóm thêm mặn nồng.

Nghe rao, tôi mơ điệu lâm thôn,
du dương dịu lắng trong tâm hồn
nỗi niềm phiêu bạt ngày xa xứ,
gác trọ sách đèn bao hoàng hôn.

Hạnh Thông Tây, 1964
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]




HÀNG RONG

”Ai bánh bèo”. “Ai bánh ướt….bánh dày”.
”Chè đậu xanh nước dừa đường cát.…đây”.
Người rao bán hàng rong như đã hát
điệu lâm thôn dân dã dưới trời mây.

Nghe lời rao, chưa nhấm, tự ngon lành.
Ngọt ngào hơn đường cát chè đậu xanh.
Dân xóm mạc nuốt vị âm vui sống.
Dù phận nghèo kiếp sống còn mong manh.

Đời trầm luân nhịp bước luôn vui buồn.
Hàng rong rao vẫn nguyên điệu quê hương.
Đủ sắc thanh, giọng Miền Nam, tiếng Việt.
Khi ngân dài lúc trầm bổng du dương.

Thời gian trôi, gánh hàng rong long đong.
Nhưng lời rao làm ấm áp tấm lòng.
Cùng nương tựa trong tình làng nghĩa xóm.
Tìm đường đi nước bước trước bão giông.

Hạnh Thông Tây, 1964
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]




BÁO DẠO

”Báo nóng hổi vừa thổi vừa coi.…đây”.
Đêm chưa qua, báo mới rao đầu ngày.
Dân hẻm phố chờ người bán báo dạo.
Tùy túi tiền, tùy thích, chọn báo hay.

Đọc tin nóng trước cửa cho nhau nghe,
xem báo cọp nơi quán cóc vĩa hè.
vừa tán gẫu, vừa thổi cà phê đĩa,
chuyện nắng mưa, thế sự, đủ mọi bề.

Bán báo dạo, rao qua nhiều cung đường,
tận ngõ ngách, xóm nghèo, cổng nhà thương,
đến bạn đọc, thợ thuyền, phu khuân vác,
người cần lao sinh sống khắp phố phường.

Người bán dạo sách báo hay hàng rong,
kiếm miếng ăn chỗ ở giữa cộng đồng,
nuôi đàn trẻ quê hương được ăn học,
cho xứng danh con cháu giống Lạc Hồng.

Văn Khoa Saigon,1964
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]



TIẾNG RAO ĐÊM

Biết bao người không quên lời ngọt ngào
của hàng rong báo dạo đã từng rao,
dù người rao kiếm ăn qua ngày tháng,
nhưng với lòng đồng cảm người khổ đau.

Hàng rong rao lương khô thức ăn phôi,
với giá bèo, giúp người đói cầm hơi,
khách tha phương qua ngày nơi đất trọ.
cùng phế nhân, góa phụ, trẻ mồ côi.

Sách báo dạo đưa tin từ nhiều nơi,
đến bạn đọc, dân phiêu lưu ven trời,
vừa giải trí, vừa mở rộng hiểu biết,
về tương quan chằng chịt giữa cõi đời.

Tiếng rao đêm, rao ngày mỗi sớm mai,
khi ngân nga trầm lắng, lúc vang dài,
theo lời ăn tiếng nói, giọng Nam Bộ
giúp lương dân vững bước về tương lai.

ĐOÀN THUẬN



TIẾNG ẾCH XA

Gác cây đứng cạnh bờ ao,
Chiều yên lắng tiếng rì rào mưa thu.
Vọng về từ cõi mịt mù,
Lời ca ếch nhái, tiếng tu hú buồn.

Dế mèn gáy nhỏ ngoài truông.
Quanh ao nhái bén nhại tuồng hát xa.
Ềnh oang trầm bổng âm ba.
Ểnh ương rền rĩ bên hoa lục bình.

Ngó sen từ đáy ao sình,
ngẩng lên nghe ếch tâm tình trong mưa.
Dưới nhành liễu rũ lưa thưa,
Nhái bầu chẫu chuộc lịu thừa chàng hiu.

Lẫn trong tiếng giọt mưa chiều,
Đàn ca ếch nhái thêm hiu hắt buồn.

ĐOÀN THUẬN




ĐIỆU RU ĐÊM

Hàng rong rao bâng quơ
như lời ru mơ hồ,
giọng trầm trong xa vắng,
Mẹ ru thời ngây thơ.

Đêm bầu trời đầy sao
Khuya khoắt rụng xuống lầu
Sương bay ngoài phố hạ.
Lời ru về mai sau.

Đêm rất dài tịnh yên.
Lời ru đầy ưu phiền
Lặng trong tình non nước
Lặng vào cõi vô biên.

Lời ru trôi với người.
Lời ru vào xa xôi.
Lời ru ôm phố tối.
Ru ru nỗi lòng tôi.

Gia Định, 1965
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]





    
tranh của Hà  Huỳnh Mỹ


XÓM MỚI


Vùng đất cũ hoang vu
nằm bên sông Vàm Thuật,
bóng người như xa khuất,
lác đác dăm túp nhà.

An Nhơn đầy cỏ hoa.
nơi đồi cây vắp trắng
qua bao mùa mưa nắng,
thêm ruộng rẫy hoa màu.

Trời cao như đón chào.
Đất đai luôn mong đợi.
Người về lập Xóm Mới,
tụ hội dân du cư.

Sau đình chiến năm tư,
bao người rời đất tổ,
di cư vào Nam Bộ
trú tạm nơi Sài Thành.

Gò Vắp, miền đất lành.
Cánh chim xa vời vợi
bay về đậu Xóm Mới.
thêm mới xứ An Nhơn.

An Nhơn,1962
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]



XÓM RUỘNG MỚI


Về thăm xóm ruộng một chiều.
Đồng bằng lúa nước nay nhiều đổi thay.

Ruộng vườn thưa thớt bóng cây.
Đường ngang lối dọc, chợ ngày quán đêm.
Người về đất cũ đông thêm.
Nhà tường gạch ngói, nền thềm đá xanh.

Khuất dần mái lá chòi tranh.
Cầu tre sàn gác kè quanh rạch hào.
Đờn cò vọng cổ hát rao.
Lắng sâu vào chốn xanh xao đước bần.

Nay theo cấu trúc nhiều tầng.
Quan trên biệt thự, nông dân nhà vườn.
Đường xe tráng nhựa thông thương.
Nối liền phố thị nông trường miền quê.

Cảnh đời khác trước mọi bề.
Tôi như khách lạ chưa hề qua đây.

Thủ Thiêm, 1990
ĐOÀN THUẬN




QUA PHỐ  MỚI



Tôi về hỏi phố một chiều đông
con đường hẹn cũ có còn không ?
Vẫn hàng cây đứng xanh ngày tháng
chỉ giọt mưa xưa đã phiêu bồng.

Gõ gót giày quen qua phố đêm.
Xe cộ lại qua người đông thêm.
Bên kia đường phố đèn xanh đỏ.
Mái tóc nào che nụ hôn mềm.

Hẻm nhỏ giờ đây lầu cao lên.
Những khu biệt thự những ô đèn.
Cửa hàng khách sạn cao ốc mới.
Nhà đẹp phố sang biết ai quen.

Về lại tìm người thuở mười lăm.
Nhà cũ hiên xưa thoáng xa xăm.
Dưới hoa chủ khách đầu điểm bạc.
Giật mình tôi ngỡ đã trăm năm.

    
Thảo Điền, một chiều thu
       ĐOÀN THUẬN

 


 
tranh của Abbott Fuller Graves

 

HOA LỆ

Xa rồi Hoa Lệ Sài Gòn.
Sau ngày giải phóng chỉ còn “lệ hoa”.
Hoa mừng thống nhất sơn hà.
Lệ buồn thấm đất quê nhà Miền Nam.

Hoa đầy hội nghị tọa đàm.
Hoa tràn biệt phủ thuộc hàm đại quan.
Hoa từ ngà ngọc son vàng.
Vinh hoa phú quí hân hoan uy quyền.

Lệ sầu đau phận Dân hiền.
Di cư di tản, muộn phiền xa quê.
Nhà xưa đất cũ đi về.
Chỉ còn nỗi nhớ não nề tang thương.

Theo đường thương lái Bắc phương.
Văn hóa suy thoái, thị trường suy vi..
Dân Đen khốn khó sầu bi.
Người vào cát bụi, kẻ đi xa vời.

Phồn hoa tráng lệ một thời.
Nay như “hoa khói” “lệ đời” bỏ buông.

Thảo Điền,2021
ĐOÀN THUẬN

 

 

SÀI GÒN SANG TÊN .

Sài Gòn tên đổi Thành Hồ.
Tự Do đường cũ bản đồ niêm phong.
Đâu còn Hòn Ngọc Viễn Đông.
Sau ngày “Mỹ cút” long đong “Ngụy nhào”.

Nghìn năm tình nghĩa đồng bào
”Bắc Nam sum hợp xuân nào vui hơn”.
”Triệu người vui, triệu người buồn”
”Kẻ giàu sụ, kẻ tha phương” cuối trời.

Lương dân bản địa một thời.
Không nhà, tạm trú, di dời, khổ đau.
Lộc Hưng tan nát vườn rau.
Thủ Thiêm mất đất, lệ trào Bình Giang.

Nhóm băng “lợi ích” huy hoàng.
Mê cung biệt phủ, đại quan thị trường.
Thêm luồng dịch tể Bắc phương.
Đưa dân vào cảnh đoạn trường bể dâu.

Thành Hồ cao ngất phố lầu.
Người nghèo kín cửa khép sâu nỗi niềm.

Thảo Điền,2021
ĐOÀN THUẬN



HÒN NGỌC VIỄN ĐÔNG
đâu còn


Sài Gòn còn đâu Hòn Ngọc Viễn Đông sau bảy lăm.
Chợ Bến Thành vẫn như toa tàu trăm năm
đỗ lại bao người buồn vui nơi thành xưa phố cũ,
tiễn đưa bao người tha phương phiêu bạt xa xăm.

Đoàn quân thắng cuộc  ồ ạt vào Sài Gòn
tiếp thu Hòn ngọc xanh, Đô thị vàng son
đánh tư sản, cầm tù cải tạo dân thời Ngụy
trí thức văn nhân câm lặng mỏi mòn.

Sài Gòn lừng danh sầm uất khắp Viễn Đông
Nền văn minh lúa nước đồng bằng sông Cửu Long
sau giải phóng, tem phiếu thời bao cấp
khiến dân đen lao động sống long đong.

Văn hóa Sài Thành luôn thân thiện nhân hoà
quí trọng tình người, tự do sáng tạo tài hoa,
nay thấy đâu quyền dân sự, dù hô hào đổi mới
bè phái tham ô, vô cảm, lầm lẫn giữa chánh tà.

Hòn ngọc Viễn Đông như khuất sâu mờ dần
còn chăng những phố sang công nghệ cao tầng
với đông đảo tập đoàn lợi ích tư bản đỏ
chiếm dụng đất đai, độc quyền áp chế dân.

Nancy, 2004.
ĐOÀN THUẬN

 

 

MƯA XUỐNG ĐƯỜNG


*
Ngày Mười Tháng Sáu, mưa xuống đường qua phố.
thành đại lộ sông dài nhích trôi từng chiếc xe.
như hẻm sâu suối reo tràn từ khu nhà ở
từ thác cao mái phố đổ xuống ngợp vỉa hè.

Lũ Bắc phương định hướng đặc khu ngăn nguồn Nước.
Nước vẫn trôi theo dòng, mọi giao thông luồn lách qua.
Lốc thổi mạnh bạo tàn vào dân đen lội bộ.
Bùn đất dính đầy ngoài cửa, đâu thấy được bão xa.

Nước xoáy dữ. mọi thứ dồn cứng nghẹt họng cống.
Không ngõ trôi, rác rưởi đọng lại bên đường đời.
Lũ chuột nhắt, trốn mưa, rụt đầu khe tường nứt..
Bọn cướp ngày,dù đội ô che, núp sấm trời.

*
Mưa xuống đường âm vang tiếng chim trời Lạc Việt.
Làm nhớ thời mơ hoa nương nhau đụt mưa.
Đường Tự Do, sân Văn Khoa, quán Thanh Bạch.
Tình nghĩa mặn nồng thân thiện bao mùa xưa.

Hạnh Thông Tây, 10/6/2018.
ĐOÀN THUẬN






             tranh của Abram Arkhipov


VỀ PHỐ

Loanh quanh mấy mươi năm tỉnh lẻ
lặng lẽ tôi về thành
ôm phố vào lòng mà vẫn nhớ phố
nhớ từ góc ngoại ô xanh.

Bao năm về chưa lần vào khu đô hội
trước phố sang tôi như thổ dân
một giáo già quê kệch bâng khuâng ngại ngần
chừng như căn hộ xưa đổi chủ
và em đã xa xăm
còn chăng tiếng đàn lưng chừng mái phố.
giọt nắng thơm vương nhẹ bên thềm.

Lẩm cẩm tôi đâu nhớ nổi đôi điều mất còn
nhưng đâu quên bạn xưa một thời trẻ con.
Những thằng bạn phiêu bạt đâu đó Pháp Nga Mỹ Đức
hoặc đang lọm khọm cô đơn cuối hẻm sâu Saigon
hoặc nằm yên nơi chiến địa bỏ hoang.

Những thằng bạn quỉ quái mê chơi dễ thương
về gõ cửa ngôi nhà tiềm thức buồn vui cũ kỹ
cùng dạo chơi sau mưa bay quanh những cung đường
bát phố ngày chủ nhật
nhâm nhi cà phê Quán Văn Quán Gió Sân Vườn.

Những thằng bạn say văn chương lai rai cốc bia đầu phố
đốt điếu thuốc soi trang thư nét mực nhàu phai
Ký ức sơ sài mà thấm đẫm nỗi niềm thế sự
một khúc ly ca làm nhớ mắt ai
một thoáng hoa xưa cùng bao nỗi u hoài.

Tôi về chiều mưa sa
mưa tạt lạnh phố cũ
ướt sũng hồn hoa.

Thủ Đức, 2008
ĐOÀN THUẬN



QUA ĐƯỜNG NGUYỄN DU

Đường chiều Nguyễn Du
mùa thu mưa rơi
một lần qua đó
buồn vui một thời.

Mùa thu Sài Gòn
thương tròn mắt nhớ
một chiều xưa mưa
người em gái nhỏ
tóc mây giao mùa.

Mùa thu lá bay
gọi chiều qua đây
hàng me bóng ngả
nghe như lạnh đầy.

Lặng nhìn ngày trôi
mình tôi nhớ người
mùa xưa áo trắng
sân trường phượng rơi.

ĐOÀN THUẬN



QUA
ĐƯỜNG TỰ DO CŨ


Chiều Sài Gòn đơn côi tôi qua đường Tự Do cũ,
tìm thăm mái phố vỉa hè cửa hiệu xưa quen,
tìm phút giây thư sinh bên em một thời đại học,
tìm bạn bè tán gẫu bên tách cà phê đen.

Chiều La Pagode, đêm Eve Tự Do, sáng Adam Mỹ Cảnh
Khúc sérénade dịu êm, điệu blues buồn xa xôi.
Tạt vào Xuân Thu, hành lang Eden, trú cơn mưa vội vã
Ngồi Continental ngắm xe qua ồn ã những phố dài.

Đôi khi ghé Bưu Điện nhận lá thư lưu trữ.
Nghe chuông Thánh Đường đong đưa sớm mai.
Buồn nhớ mẹ nhớ quê theo bước đời luân lạc.
Nhớ khuôn mặt ai thánh thiện tóc mây đôi vai gầy.

Tôi yêu đường Tự Do, yêu em thơ ngây cùng nhau bát phố,
những ngày đèn sách mộng mơ bầu trời xanh mênh mông.
Nay tôi về, lạnh lùng những đôi mắt sau khung cửa lạ lẫm.
Phố cũ bạn xưa tình đầu đời dấu kín một tấc lòng.

Thủ Đức, 2007
ĐOÀN THUẬN



QUA  NHÀ DƯỠNG LÃO

Trong hẻm sâu đường Âu Dương Lân
Nhà Dưỡng Lão cũ kỹ xưa dần.
Dưới tán cây um tùm vắng vẻ
Lời ai buồn thì thầm bâng khuâng.

Thấp thoáng lão nghệ sỹ cải lương
bên băng đá, thềm gạch, chân tường
sau song cửa, căn phòng mờ tối
lắng lặng trầm ngâm lẽ vô thường.

Câu vọng cổ một thời bay qua
của đào thương kép mùi tài hoa
làm đắm say lòng người mến mộ
cùng gánh hát lưu diễn gần xa.

Nay tóc xanh sương pha hoa râm
như chiếc bóng lọm khọm âm thầm
còm cõi không nơi nao nương tựa
loanh quanh một khoảnh sân bụi lầm.

Lão nghệ sỹ
cất tiếng hát ru ai
một đời đờn ca tài tử
giờ tự ru mình quạnh quẽ hôm mai.


ĐOÀN THUẬN






QUA VIỆN  MỒ CÔI

1.
Viện Mồ Côi, em ngồi thầm lặng.
mắt vu vơ như mơ điều gì,
nhìn xa xôi như mong ai về,
từ phương trời mịt mùng sương gió.

Em ngồi đó bên bao trẻ nhỏ
để lòng buồn tha thẩn chân mây
hình dung người xa khuất cõi đời
tự an ủi những ngày côi cút.

Viện mồ côi, với bao đêm thức
nghĩ ngày mai thăm thẳm dòng trôi
giữa mênh mông em một mình thôi
sao biết được đường đời hiu quạnh.

Viện mồ côi, những đêm mưa lạnh,
nghĩ nhà ai sum hợp bình yên,
bên mẹ cha, thân yêu dịu hiền,
riêng em chỉ một mình lớ ngớ.

Viện mồ côi, sớm mai bỡ ngỡ,
lời thánh ca, kinh nguyện ngọt ngào
tưởng lời ai ru nôi ngày nào
cùng giọt lệ rơi dài bi thiết.

Bị bỏ rơi, thầm lời từ biệt,
bên gầm cầu, hố rác, vệ đường
nhờ từ thiện cứu vớt xót thương
cho tồn tại dưới trời mưa nắng.

2.
Viện Mồ Côi, với tường vôi trắng.
Cổng sắt khóa, bóng hoa sứ rơi.
Bên cửa sổ, lặng thinh em ngồi.
Cùng bao trẻ phận đời côi cút.

Em vẫn luôn nhìn về xa hút,
trán thơ ngây chưa thấm mồ hôi.
tóc xanh thơm chưa vướng bụi đời.
Sao em hỡi, mắt buồn quá đỗi.

ĐOÀN THUẬN






QUA THƯ VIỆN QUỐC GIA


Chiều Bến Thành, nơi Thư viện Quốc Gia
Đèn nê-ông soi bạc tóc sương pha.
Ta lẩn thẩn ngỡ ngàng trước kệ sách
Kẻ quê mùa nơi đô hội phồn hoa.

Ta lạ lẫm trước mắt người trẻ tuổi
đang lật trang sách tựa Mác-Lê-nin
như dò tìm một trào lưu hiện-thực
giữa đa-đa, cổ-điển, lẫn siêu-hình.

Đâu ai ngờ mùa đi phai dấu tích,
trên khuôn viên trường Đại Học Văn Khoa,
nền đất xưa Khám Lớn thời Pháp thuộc,
đã nên hình một thư viện nguy nga.

Nay, lai căng lời Văn Chương Quốc Âm,
cả sắc thanh trong Ngữ Học Việt Nam.
Dòng Sáng Tạo Tự Do vào bóng tối.
Trang Nhân Văn Giai Phẩm phủ bụi lầm.

Ta một mình dưới mưa đường Nguyễn Du.
Thời thư sinh áo vải đã xa mù.
Tình phố cũ chạm buồn vào ký ức
Lá me rơi vàng úa buổi chiều thu.

Bến Thành, 1990
ĐOÀN THUẬN





TIỄN SƠN NAM
NHỚ BÙI GIÁNG

Ông từ châu thổ đến đây.
Áo quần râu tóc dính đầy phù sa.
Hương rừng hương đất hương hoa.
Và hương chữ nghĩa, nay xa mấy miền.

Ông đi quên hết rã riêng.
Lá hoa cồn, nỗi ưu phiền tháng năm.
Ông đi bỏ lại chỗ nằm.
Ngàn sau rớt hột mưa thầm bóng mây.

Tình xanh như chiếc lá bay.
Mùa đi hoang hoá rừng cây núi đồi.
Đôi dòng suối cạn và tôi.
Khát khao một giọt mưa rơi ngang đời.

ĐOÀN THUẬN





QUA PHỐ NHỚ SƠN

Tình như cánh vạc qua đêm
những dòng sông nhỏ xa thêm bến bờ.
Sơn ngồi hát những vần thơ
tưởng như bên Quán Văn chờ đêm mưa.

Tình như hương lặng vào mùa.
Ta đi nghe gót giày khua đường dài.
Cũng đành thôi nếu một mai.
Vết lăn trầm xuống hình hài vô minh.

Tình như cát bụi lặng thinh
tàn quên một đóa hồng nghìn thu qua.
Rừng xưa đã khép từ xa.
Khúc chiều biển nhớ  tình ca bên trời.

Diễm xưa chừ đã xa khơi.
Ngàn năm ru mãi một lời yêu thương.

Một mình qua phố chiều buồn.
âm thầm nhớ tiếng đàn Sơn giữa đời.
Ta cùng cát bụi rong chơi,
chợt nghe một nốt trầm rơi cuối mùa.

ĐOÀN THUẬN



          tranh của Alan Kirkland Roath


TƯỞNG NHỚ
VỀ TRƯỜNG XƯA


Cuối đời vẫn nhớ trường xưa,
dù bao sương gió nắng mưa dập vùi.
Trong tôi thầm lặng ngậm ngùi.
Thầy Cô còn mất ngược xuôi thế nào.

Bao điều giảng dạy ngày nao,
như lời khuyên nhủ ngọt ngào khó quên,
giúp tôi từng bước vững bền,
vượt qua tăm tối gập ghềnh xót xa.

Nguyên lý giáo dục quốc gia.
”Nhân bản Dân tộc” luận ra ngọn nguồn.
Kíến thức “khai phóng” muôn phương.
Nhân văn khoa học lưu hương cõi người.

Học Văn một, Học Lễ mười.
Tình làng nghĩa xóm xây tươi “vườn đời”.
Người học chữ nghĩa đạo trời
nhận ra tiếng nói xu thời điêu ngoa.

Nền giáo dục một thời qua,
tạo người có Đức,Tài hoa cho đời.

ĐOÀN THUẬN





BÊN CỔNG TRƯỜNG CŨ

Tôi về trường cũ một lần.
Dưới mưa trước cổng ngại ngần hỏi thăm.

Người phòng bảo vệ lặng thầm.
Nghi ngờ kẻ lạ xa xăm đến trường.
Tôi như kẻ lạ lạc đường.
Dừng chân bên cột vách tường đụt mưa.

Thầy cô đồng nghiệp bạn xưa.
Sân trường bụi phấn mấy mùa luân lưu.
Ai còn dạy, ai về hưu.
Yên vui, bất hạnh, thực hư thế nào ?

Đàn em cắp sách ngày nao.
Người đi kẻ ở ra sao giữa đời ?
Trước bao hoàn cảnh đổi dời,
Thầm mong người cũ một thời bình an.

Giã từ đất mẹ trường làng.
Cuối đời tôi lại lang thang xứ người

ĐOÀN THUẬN





KHÔNG LỜI


Trường xưa đổi hiệu thay đời.
Bảng đen phấn trắng không lời biệt ly.
Bút nghiên một thuở xuân thì
Nay như bụi phủ đóa quì tàn phai.

ĐOÀN THUẬN


*





tranh cua Hsin Yao Tseng



NỖI ĐAU THƠ NGÂY
________________________





NỖI ĐAU THƠ NGÂY

1.
Mỗi năm ở Châu Âu
hàng triệu trẻ thơ
là nạn nhân của mục đích tìmh dục
bọn khai thác xác thịt
hưởng lợi hàng tỉ ơ-rô.

Một tên ma cô
bỏ túi hai ngàn đô
sang tay một em gái
chưa qua tuổi dại khờ.

Vùng Kehl sát biên giới Đức
những bé thơ
bị bán như gia súc
sa cạ mỗi em ngàn ơ-rô.

Nơi phố Clokure Paris
bé Ginka chết khô trong hầm rác
sau mười một năm bán kiệt thơ ngây
cho hai mươi khách mỗi ngày.

Anita vừa tròn mười lăm tuổi
mỗi đêm bán mình cho năm gã khát tình
đủ mua cơm và đóng học phí
đâu dám mơ gì hơn giữa cõi phù sinh.

2.
Khắp nơi trên trái Đất
biết bao trẻ không gia đình không quê hương
bơ vơ trôi dạt muôn dặm trường
còm nhom đói rách nơi bãi rác
xin ăn xó chợ đầu đường
ở trọ cùng gió sương.

Và bao triệu trẻ em
mang dáng hình quái dị
vì chất độc da cam
vì chất độc phóng xạ
từ những cuộc ngoại xâm .

Rồi đây bao thế hệ
đâu khô giọt lệ thầm.

Nancy,2004
ĐOÀN THUẬN

 



EM THƠ

CHIM BÓI CÁ

Đâu phải biển xanh vì hạt mặn
Cỏ cây đâu phải bổng nhiên tàn.
Đâu phải chết đi là cát bụi.
Hương trời phai hết khi mùa sang.

Em thơ đứng lặng bên hồ vắng.
Nghe tiếng chim chiều buổi xa quê.
Biển mặn trong em là nước mắt.
Sông nước mênh mông biết đâu về.

Làng xưa xa khuất đâu hình bóng
Nỗi buồn đâu chắc sẽ hư không.
Con chim bói cá trên cành gãy
Như thể trầm tư trước dòng sông.

Lênh đênh, bèo dạt lục bình tím,
Lặn sâu, cá trắng cùng tép riêu.
Gió đưa, lá úa theo sương khói.
Mùa trôi, rạch đước dần tiêu điều.

Chim thôi bói cá về tổ ấm.
Rong rêu nương tựa đám lác bàng.
Cành khô in bóng trên hồ tịnh.
Em thơ côi cút đời lang thang.

ĐOÀN THUẬN



 

THAI NHI KHÔNG TÊN 1.

Hàng ngàn thai nhi trong chùa Wat Phai Ngern
nằm yên trong túm giấy, bọc vải, bao ny-lông
ngủ quên đã lâu dưới lớp tro muối
chờ phút hoả thiêu trở về cát bụi
đầu thai vào cỏ cây mây nước gió sương.

Chưa kịp chào đời những thai nhi không tuổi
tượng hình giọt bào thai không chân dung không tên
hiện thân của tình yêu rẻ dại tuyệt vọng
dấu vết của hoan lạc chiếm đoạt,khát vọng bồng bềnh.

Hàng vạn mầm sống
lăn lóc theo đường nạo thai cùng viên thuốc huỷ diệt
tuột khỏi cửa đời vội vã lìa xa bầu tử cung
hàng triệu sinh linh chưa kịp chọn nơi yên nghỉ
vất vưởng nơi nhà cầu thùng rác, góc khuất ven đường.

Bao người dìu nhau về chân trời hoa mộng,
bao người quay cuồng mê đắm giữa cuộc truy hoan,
bao người buồn đau nuối tiêc mối tinh tan vỡ,
còn ai nhớ chăng giọt máu rơi, dù một thoáng muộn màng ?

Nan Cy, 11/2010
ĐOÀN THUẬN




THAI NHI KHÔNG TÊN 2.
.

Sáu tháng đầu năm 2011
từ bệnh viện Phụ Sản Trung Ương Hà Nội
hàng ngàn thai nhi vội vã lìa đời.
chưa kịp tượng hình, chưa đầy một giờ tuổi
đâu rõ phận người mai sau buồn vui.

Dăm ba phu nhân theo trào lưu thời thượng văn minh
ngại ngùng đứa con thứ ba hoang thai ngoại tình
làm vỡ mộng vàng son giữa thị trường danh vọng
đành lòng phá thai hủy diệt chính con mình.

Những thiếu nữ trao thân thơ ngây cho hoan lạc mê say
chợt nhận ra phút mộng mơ không ngày mai
giữa cuộc đời trần tục dối gian ngang trái.
đau đớn chối từ giọt máu tình yêu mới hoài thai.

Bao bệnh án nhân danh AIDS giang mai Rubella
bao hồ sơ tội phạm dán nhãn bao cao su
bao chiếc ghế quyền lực trở xoay trong mùi hôi tình dục
bao cô hồn vật vờ chốn oan khiên mịt mù.

Còn bao thai nhi bị bỏ rơi nơi xó chợ đầu đường.
nơi đóng rác y tế, quẩn quanh dưới bóng tối nhà thương
còn lời nào tiễn đưa sinh linh bé thơ về cát bụi
giọt mắt nào buồn trong mênh mang khói hương.

Nancy,2011
ĐOÀN THUẬN



 

   VỀ ĐÂU

Tôi trở lại một chiều đông tận
mới biết em bỏ viện lâu rồi
để kiếm sống nơi nào chưa rõ
một mình em lưu lạc phương trời.

Tôi tưởng tượng đêm nơi bến vắng
trước dòng sông, thức trắng, em ngồi  
thả hồn vào chân trời sâu thẳm
mơ về đâu, xa lạ chơi vơi?

Tôi tưởng tượng bên hiên chùa vắng
rơi lắt lay, lạnh lẽo mưa mùa
em co quắp nơi thềm rêu đá
tay kê đầu, thân phủ áo thưa.

Tôi tưởng tượng em gò lưng nhỏ
gánh phân thuê đem đổ bờ xa
mà bụng đói, mắt hoa, vai mỏi
mà lòng đau, máu ứa, lệ nhòa.

Tôi tưởng tượng em vào phố chợ
cầu khẩn xin từng hạt cơm rơi.
thức ăn thừa nằm trong xọt rác 
giúp thân tàn thoi thóp cầm hơi.

Nhưng em hỡi ! đâu là tưởng tượng,
khi ngoài đời bao người đơn thân
vô gia cư, không rõ cha mẹ.   
sống khổ đau, mòn mỏi, chết dần.

Chiều tàn đông tôi về thăm em
hoa bên thềm vẫn nở thản nhiên
đâu có biết giữa đời trôi nổi
kiếp mồ côi lặng lẽ ưu phiền.

ĐOÀN THUẬN

 









tranh của Léo Putz
 

* MỘT HOÀI NIỆM *
____________________________________

           .

GHI CHÚ CUỐI NGÀY.

1.
tia nắng cuối cùng xuống phố
trời chưa sang thu đâu heo may
dăm chiếc lá khô rơi
chiều thinh vắng
lạnh hiên ngoài.

2.
một đoá hoa rơi giữa sân bâng quơ
chẳng kịp theo mùa về
mưa rào qua mái phố
nhạt nhoà hàng me.

3.
hẻm cụt mất điện quánh đặc bóng đêm
qua khung cửa hẹp
nơi đỉnh cột đèn chết
đám mây sau mưa như còn trôi
trên cao một giọt sáng rơi.

4.
lá thư từ xa xôi
con tem miền tuyết lạnh
nằm yên nghe chiều trôi.

5.
ngày ra đi
xe tốc độ vút qua bụi mù
bỏ lại mảng tường loang lổ phố thị
ta vẫn chờ mãi ta nơi đất trọ heo hút nẻo về

dường như ai đó nhắc ta đừng hẹn chờ vô lối
rồi mai cuối đường thế nào mặt trời cũng lên
dù chiều nay hay ngày sau bất ngờ mất ánh sáng
ta vẫn dặn lòng ta tỉnh thức đừng buồn.

6.
một khắc trời yên gió
chiếc lá rách ngủ quên nơi bậu cửa cuối chiều
trang thư chưa lên đèn con chữ dốt đặc cô liêu
cánh cửa đóng sập vào tối

7.
hằn lên vắng lặng một giọt sonate
chạm lòng đêm hiền từ
ta dò tìm khuôn mặt xưa theo dòng chữ
hạt lệ nào khô rơi xuống hoang vu.

ĐOÀN THUẬN

 

TƯỞNG NIỆM
ANH TRẦN VĂN HÒA


Anh từng phiêu bạt xa khơi
Nay về yên nghỉ dưới trời quê hương.
Giã từ mưa nắng gió sương.
Bỏ buông bao nỗi đoạn trường bể dâu.

Quê Cha đất Mẹ rừng Dầu.
Thôn xưa Tân Lý cúi đầu đón Anh.
Bao năm xa xứ độc hành,
Nay về yên giấc mộng lành thiên thu.

Người từ cát bụi mịt mù.
Trở về cát bụi tầm vu vô thường.
Xác thân cõi tục tang thương
Hồn thiêng tịnh cõi thiên đường an nhiên.

Gò Vắp, 2024
ĐOÀN THUẬN

 


 

BIỆT LY

Xác hoa phượng vĩ rơi đầy.
Đường về trường cũ phố mây hạ tàn.
Ta như khách lạ qua làng.

Lớp lang sách vở sang trang.
Tháng ngày bụi phấn bàng hoàng bay đi.
Đâu đây một thoáng biệt ly.

ĐOÀN THUẬN

 

THẦM TƯỞNG NHỚ.

Giã từ lớp cũ trường xưa.
Thầy cô phiêu bạt nắng mưa bên trời.
Bút nghiên bụi phấn không lời.
cùng bao bạn trẻ xa rời cố hương.

Lương sư dưới bóng bụi đường.
Lời nguyền hưng quốc như vương mối sầu.
Hoang tàn bao lối bích câu.
Thư sinh áo vải cúi đầu biệt ly.

Tình xưa nghĩa cũ thầm thì.
Nhân văn “nhân bản” đạo nghì phôi pha.
Cội nguồn “dân tộc” nhạt nhòa.
Tầm nhìn “khai phóng” sương sa che mờ.

Lương dân di tản bơ vơ.
Di cư đau xót về bờ bến xa.
Đền đài đất tổ quê cha.
Chìm trong bể khổ ta bà tang thương.

Thầy cô lưu lạc dặm đường.
Khuất xa Đất Mẹ mái Trường Làng xưa.


Nancy,1976
CÁT SỸ

 

MỘT HOÀI NIỆM

Tưởng khuất xa theo tháng ngày trôi,
ngôi trường Sư Phạm Saigon một thời,
qua bao đổi thay, trên nửa thế kỷ,
nhưng vẫn còn đây hoài niệm không lời.

Buổi sáng hẹn chờ với nỗi niềm lặng thinh,
qua email, qua dòng thư tâm tình,
dưới bóng cây sau dinh Độc Lập,
nơi cư xá Đô Thành.

Tôi đâu ngờ được hội ngộ bạn hữu xa xăm,
ngỡ như trải bao dâu bể thăng trầm,
khi tuổi đời vào dần thưở xưa nay hiếm,
mắt đã mờ, chân đã mỏi, tóc hoa râm.

Phin cà-phê, nhỏ từng giọt thời gian
làm nhớ buổi chờ nhau,chiều Thanh Bạch Adam
bát phố Lê Lợi Tự Do, sáng chủ nhật
qua đường Nguyễn Du, nghe rơi lá xanh lam.

Bầu rượu Cognac nơi tư thất Hiếu Nghĩa
cùng Anh Khiêm, Đăng Tiến nồng nàn hương xưa,
cụng ly sum họp, chạm môi vào nỗi nhớ,
về một thời sư phạm qua bao nắng mưa.

Vài trang sách cũ, một “Sắc Phượng” buồn,
đưa mùa “Trôi Trên Dòng Thương”,
”Ký Ức Sơ Sài” đánh thức bao kỷ niệm,
giữa cõi người trong đục nhiễu nhương.

Thủ Đức,2004
ĐOÀN THUẬN
 


TRẦM HƯƠNG.


Khói nhang hỏa táng nhẹ bay.
Đưa người rời khỏi bùn lầy nhân gian.
Nơi nao thiên lý địa đàng.
Còn đây bia đá nghĩa trang mộ phần.

Mưa trời thay lệ lương dân.
Thả trên cát bụi, trên thân phận buồn.
Lìa đời tâm tịnh bỏ buông.
Bờ mê bến lú suối nguồn đục trong.

Trăm năm sinh tử xuôi dòng.
Chưa cần chiếu đất, chưa mong màn trời.
Nhưng vì dịch nhiễm, qua đời.
Giã từ cõi tạm, chia phôi đường trần.

Tha phương lữ khách dừng chân.
Đâu hay nước mắt tự ngần ngại rơi.
Trầm hương theo gió chơi vơi.
Tiễn đưa hồn phách về trời phiêu du.

ĐOÀN THUẬN

 



*

*


tranh của Jong
 



MỘT MÁI NHÀ
________________________________________________
Đoàn Thuận



            Khi tôi ở trong khu tập thể C3 Hàm Tân, Bác Năm Lá vào hỏi thăm  về chuuyện sinh sống của tôi, vì Bác biết trước đó tôi đã chuyển qua làm thợ hồ, theo Ba tôi đi xây dựng nhà cửa, giờ không nhà không cửa.Thật ra, nhà ba tôi cũng là nhà của tôi, nhưng sau tháng Tư năm 1975, cháu của ba tôi từ miền Bắc về tạm trú khá đông. Tôi ra riêng, mua nhà ông Huệ, nhưng nhà này lại thuộc diện “đi kinh tế mới”, nên tôi phải trả nhà cho ban Quản lý Nhà Đất, theo qui định, rồi lên C3 Hàm Tân, phụ trách lao động, nếu không phải đi kinh tế mới. Thấy thế, lúc đầu Bác Năm bảo tôi vào ở chung vì Bác thường xuyên ở trên rẫy. Nhưng rồi, Bác mua nhà của Bác Năm Mạnh và nhượng lại căn nhà của Bác cho tôi với giá hạ, gần như cho không. Tôi thầm biết ơn Bác đã giúp tôi có một Mái Nhà 

             Bác Năm Lá là người bản địa, có dòng họ làm vườn làm rẫy lâu đời ở Thôn Dâu, trên Đồi Gió. Ba tôi quen với Bác Năm từ thời tản cư.  Khi về dạy ở Trung học Bình Tuy, đôi lần tôi vào thăm Bác, khi ghé ăn bánh ướt tại nhà Bác Năm Mạnh.  Ngôi nhà của Bác, nhượng lại cho tôi, nẳm giữa một khu nhà vườn rất yên tĩnh. Chung quanh là nhà Bác Kích, Chú Tư Liên, Chị Hai On, Anh Năm Bình. Về đây, chúng tôi như nương tựa vào sự đùm bọc của thôn xóm.  Tôi cũng gặp lại nhiều bạn trẻ, đã từng ở dưới mái trường trung học Bình Tuy, mà tôi tưởng đã phân ly vì hai nền giáo dục khác biệt, nhất là nhóm thư sinh Huỳnh Thanh Trúc, dù tôi không còn dạy Anh văn như ngày xưa nữa.                                    

             Tại dây, cuộc sống của chúng tôi dễ chịu hơn. Phần đất sau nhà, chúng tôi trồng mướp, trồng bầu, trồng rau muống hột. Trước nhà, dưới ánh đèn đêm, chúng tôi đúc bia mộ, theo đơn đặt hàng của bà con trong huyện, hay đan lác, gia công hàng mỹ nghệ. Ngoài ra, Bác Năm Lá giành cho tôi một lô đất khá rộng, ở Suối Đĩa, để trồng khoai lang.  Gần như, đây là nguồn sống chính của chúng tôi. Dù vợ chồng chúng tôi đều làm việc trong trường, nhưng lương rất thấp. Khác trước năm 1975, với lương chính ngạch, tôi nuôi đủ một vợ ba con, trong một gia đình đầm ấm yên vui. Tiền dạy thêm, ở các trường tư, tôi phụ ba tôi mua đất, xây một nhà lầu, trước chùa Quảng Đức. Đi lại, tôi có một Lambretta đời mới. Giải trí trong nhà, tôi có dàn Akai với trên một trăm băng ma-nhê đủ loại nhạc. Nghiên cứu giảng dạy, tôi có vạn quyển sách quí, được tích lủy suốt thập kỷ 60, ở Saigon. Giờ, tôi chỉ có vài cánh lan rừng , dăm chậu mai, chậu nguyệt quế.

        Dưới mái nhà này, tôi lưu giữ vài kỷ vật gắn bó với cuộc đời của chúng tôi.                              
        +  Nhà Bác Năm Lá được sửa lại, nhưng vẫn giữ “nền cũ tường xưa” và cửa sổ mặt tiền, chỉ thay mái tôn xuôi bằng hai mái ngói đỏ. Tôi muốn lưu lại dấu tích ngôi nhà của Bác, dù có thiết kế kiến trúc một biệt thự vườn rất đẹp.                                                                                                           
        +  Một bộ sa-long cổ, bằng gõ đỏ.Vật kỷ niệm của Ba tôi, khi buôn cây với Nhật Bản, ở Lagi, thời Pháp thuộc.                                                          
        +  Một tủ kính bằng săng-đá.  Má tôi dùng đựng vải, khi mở tiệm may ở Láng Găng, vào năm 1958. Tôi sửa lại để cất những bức tượng nhỏ, do tôi tạc về Cha Mẹ tôi, bằng rễ cây hay đá xanh, nhặt từ huyệt mộ của Cha tôi, khi hốt cốt vào năm 1972, và một bộ tách trà cổ, vài album ảnh của họ hàng, với mấy quyển tùy bút bằng văn vần của tôi.                                                 
         +  Một khuôn hình bằng gỗ quí do Bác Tu ở làng Phò Trì tặng Mẹ tôi vào năm 1960. Khi Mẹ qua đời, tôi dùng khuôn hình này để lộng ảnh Mẹ.
         +  Một bức tranh sơn dầu họa chân dung Thoa, do Nguyễn Thế Cường vẽ tặng vào năm 1972, khi chúng tôi từ Hà Tiên về Bình Tuy, ghé thăm gia đình Cường tại Saigon. Cường là bạn thân của chúng tôi, thời học đại học.                 
         +  Một bàn viết mặt mê-ca dày, mang nhãn “Blue Boston”, do trường Trung học Bình Tuy tặng vào tháng 10 năm 1972, khi tôi về dạy học trên

             Đây là ngôi nhà riêng đầu tiên của chúng tôi, sau nhiều năm đi dạy, kể từ 1965

            Tân An,1980
             CÁT SỸ
            [Đoàn Thuận]                                            

.



MỘT NẾP NHÀ

Khi chúng tôi về đây
mái tôn sậm màu sét rỉ
nền đất mối xông nứt nẻ tháng ngày
từ đời nghèo chung những bàn tay
xây một nếp nhà
phác thảo những mùa hoa.

Nhà ngói đỏ tường cao
trong vuờn cây ăn quả
nắng sớm phương đông soi hồng khung cửa
đêm tịnh yên thơm thoảng hương trời
gió bâc hiu hiu từ vụng biển
mưa nồm nghiêng những nốt nhạc rơi.

Bạn cũ một thời vắng xa
nên hiên trước đôi khi đầy rêu biếc
và một sân hoa
cội mai vàng nghiêng bên khóm trúc
đàn trẻ nhỏ vui ca.

Chúng tôi quẩn quanh trên đồi xanh Tân An
đời yên hàn ấm áp một niềm tin
đêm soạn bài ngày lên lớp trường bên
tranh thủ sống nhờ bàn tay thợ
đúc bia mộ phụ hồ gia công hàng mỹ nghệ
trồng hoa cây kiểng thêm ít rau màu
buồn vui có nhau nương náu bên đời .

Chúng tôi sống nơi đây đã nhiều năm
Mẹ và Thầy vào cõi xa xăm
Theo mùa hoa nếp nhà thêm hương mới
Sự sống đâu hạn kỳ trăm năm.

 
La Gi,1980
ĐOAN THUẬN




DƯỚI  MÁI XƯA

Nhà xưa còn nguyên vùng ký ức
dù đã khuất vào xuân xanh
mái cành nôm liếp lá thưa
ngày bấc lạnh.

Bao mùa đi qua cánh đồng trước ngõ
ta mót lượm gié lúa bỏ quên trong đời
nghe tiếng hát mùa xa thơm mùi rơm rạ
lời ca dao còn đọng tháng năm.

Một con thuyền ngủ xa xăm
dưới bờ cây những mùa mưa nắng
người giặt áo bên sông, lặng thầm về đâu
tiếng cười rung bóng nước
chiều lắng buồn sông sâu.

Ta về đây một ngày hoa cúc
buồn vui thinh không như hương cỏ lau
khi được ngủ quên bên thềm trăng cũ
mây trắng bay cao niềm xưa gió thoảng.

Đường thôn hoa dại nở đầy.
đâu cần nhớ chi mấy mùa lưu lạc
hương trời đâu đây.

ĐOÀN THUẬN





LIỄU XƯA


Vẫn nghe tiếng biển rì rào
đưa con sóng biếc chạy vào bờ xa.
Liễu xưa mẹ hát la đà
ru tôi vào giấc ngủ hoa yên lành.

Vẫn nghe từ khoảng trời xanh,
vi vu diều sáo thuở thanh bình nào.
Tuổi thơ hồn thả bay cao.
Lời đồng dao cũ nghêu ngao trên đồi.

Vẫn nghe dòng suối bồi hồi
như tình em đó một đời tôi yêu.
Khúc dân ca lắng trong chiều.
Suối ơi, suối chảy bao nhiêu bến bờ.
Một lần cho tôi ước mơ.

Một lần cho tôi vần thơ.
Thơ ơi, vàng bướm bao giờ Mái Xưa.

ĐOÀN THUẬN





BÊN CỘI TRÚC.

1.
Các con hãy đi đến mùa măng bên cội trúc
hát xanh những rừng lá biếc
đời chưa hẳn là bài thơ vui
nhưng đất cũ quê xưa còn bao điều khắc cốt.

Trên những nẻo đường nắng mưa
có bóng cha ông khòm lưng lên giọt mồ hôi
qua những mùa bấc thổi.

Dưới bóng hoa rơi
thêm bao mùa tàn nở
tiếng nấc cõi người
làm hạnh phúc chơi vơi.

Hoa không tươi mãi
đời vui không thể dài
hãy thật với lòng mình
để hương không phai

Các con hãy thức trước bình minh
để thấy sự lụi tàn của bóng tối
nơi chân trời.

Ngày mới xua tan đêm đen
nhưng ánh sáng luôn mang bóng tối
trước lửa, bóng núp sau ta không tên tuổi
lửa ra đi khi tro tàn lạnh lẽo
hãy thắp sáng niềm tin
để sự thật không còn u ám.

Ngày không dài như đêm
ngày chưa hết hoàng hôn đã xuống
nhưng mỗi người còn một trái tim
nhịp đều trong lồng ngực
làm nên sự sống của thời gian.

2.
Hãy đứng thẳng trước núi
nhưng mềm mại như sông
chỉ có nước mới lấp đầy mênh mông.

ĐOÀN THUẬN



 

TIẾNG CHIM KHÁCH

Chim khách gọi chiều
xua vạt nắng mờ dần thôn dâu,
ta ngỡ bạn cũ
về thăm vườn thơm bỏ hoang từ lâu.

Bao mùa bão rớt đi qua hàng dậu
thu muộn úa màu
nát nhàu hoa râm bụt
lối nhỏ lá khô lùa lao xao.

Ta chờ nghe
tiếng chân ai dừng yên bên cổng khép,
gót hài nhỏ nhẹ trên lớp gạch rêu xanh,
hương tóc chạm vào nỗi nhớ lặng lẽ,
ngoài hiên êm, hạt sương gieo buồn tênh

ĐOÀN THUẬN


.



*



*





tranh của Thomas  Kingkade



VỀ VƯỜN
_______________________________
Đoàn Thuận



             Năm 2003, tôi từ biệt trường Bán công Nguyễn Huệ, về lại mái xưa nơi Thôn Dâu, trên Đồi Gió. Những Bờ Dâu, những Xóm Học không còn nữa. Nhà cửa thấp cao che khuất những vườn rau, luống cải, ô hoa. Hàng dương liễu xanh, trước sân trường Bình Tuy ngày nào, như chìm sâu vào quá khứ. Nhưng Gió ngàn phương vẫn lộng thổi qua Đồi, vẩn vi vu trong tâm tưởng lời học bài của bao lớp thư sinh, nơi quê hương tôi.                              

          Ngày về vườn, tôi để lại sau lưng biết bao nỗi buồn đau. C3 Hàm Tân ở gần, nhưng tôi ngở như xa xăm, đã hơn mười năm chưa một lần trở lại. Vài người nhìn tôi như một tên tội đồ của chế độ, dù tôi đã từng lao động ở đây gần hai mươi năm, kễ từ tháng 7 năm 1975. Tỏi chỉ biết ước mong gió đồi Tân An thổi bạt điều vu vơ về chân trời xa.               

           Tóc nay đã bạc, mắt đã mờ, nhin thấy đâu trang bài soạn mực nhòe từ thập kỷ 60, nhìn thấy đâu bóng áo trắng thư sinh một thời, trên đường đầy cát bụi. Đầu óc mụ mẫm ngu ngơ, khiến tôi tưởng tôi như cụ đồ già.                 
                                         
Đôi khi tôi muốn tìm một đệ tử.                                     .
Theo kiểu cụ đồ xưa.                                             .
Để truyền dăm ba chữ.                                   .
Dạy một thế võ.                                            .
Dặn đôi điều nắng mưa.

Nhưng nhịp đời không cùng nhịp trái tim
Một đô la có lắm người xu phụ.

Tôi về gõ cửa đền đài mơ ước
Tự biết mình ngu ngơ.

           Bạn hiền lưu lạc tha phương, ít người gặp lại.                     
           Lê Tráng, bạn chăn trâu thời niên thiếu, đã rời động Tiên Sa, từ giả Xóm Lưới, yên nghỉ nơi Đất Thánh Tân Lý, bên Rừng Dầu, cạnh Bưng Ngang. Ước hẹn cùng bạn hữu về thôn La Dạ, lên Núi Dinh, thả bè mây xuôi La Ngà, như mờ dần dưới bóng trăng huyền thoại “Hòn Bà Núi Ông”. Bài hát Đò Chiều, cung điệu Boléro, cùng gió bay xa theo Trúc Phương, vì Bến Cá Tân Long và  những con đò ngang, đâu còn nữa. Giờ đây, bên tách cà phê đêm, tôi một mình nhâm nhi nỗi nhớ.  
     Huỳnh Thanh Trúc, từng học Anh văn với tôi một năm, giờ cũng đã về trời, bỏ tôi lại cõi bụi.  Ngày tôi nhận quyết định xây “ngôi trường quốc gia” trên khu Sư phạm Mầm Non cũ, Kiến trúc sư Huỳnh Thanh Trúc đã giúp tôi “thiết kế” ngôi Trường Chuẩn Quốc gia này, và phác thảo nhanh để tu sửa hai dãy nhà cũ, kịp thành lập Trường Bán công Nguyễn Huệ, vào mùa hè năm 1994. Những ngày tôi gặp lận đận, nhóm Thư sinh Huỳnh Thanh Trúc đã giúp chúng tôi nhiều điểu, trong đó có vẽ một ngôi “biệt thự vườn”, trên nền nhà cũ của Bác Năm Lá, khi tôi mới về đây. Nay về hưu, tôi muốn dựa vào thiết kế của Trúc, lập một “vườn tượng hoa” để lưu lại một chút gì của quê tôi. 

             Trong thiết kế “biệt thự vườn”, Trúc phác thảo một “Thư Phòng”, nơi lưu giữ những “kỷ vật” của gia đình tôi, và treo những bức “thư pháp”, “ký họa”, đặt vài bức “tượng chân dung” do tôi chạm từ những loại đá đặc biệt trên Đất Mẹ La Gi. Năm 1972, khi tôi về lại quê Mẹ, Lê Tráng và tôi thường đi thăm đôi nơi mà Cha Ông của chúng tôi từng trú ngụ. Đến đâu, chúng tôi thường ghi lại vài đặc điểm của phong cảnh và tình người, nhặt vài rễ cây cổ thụ, vài cục đá đậm màu bản địa, nhẵn bóng thời gian. Tôi dùng lưỡi đục, đã từng đục chữ trên bia mộ, để chạm khắc hình ành Cha Mẹ, Ba Má và người thân của tôi.  Tôi không là nhà điêu khắc, chỉ là người cầm phấn, cầm bay, cầm đục, ghi lại vài nét còn lưu lại trong ký ức buồn vui của tôi.              
                 Nơi mái xưa, nhìn lại không còn gì. Tượng chân dung đã cùng thân hữu lưu lạc đâu đó, kể cả bức ký họa. Còn chăng, một cội mai già trên trăm tuổi, mà Hựu ở Phong Điền tặng tôi, vào ngày chia tay đi Paris. Do đó, ý định lập “vườn tượng hoa”, chỉ là một ý định mơ hồ.

                Năm 2005, Thoa rời trường Tiểu học Tân An, lui về hưu trí.  Chúng tôi tạm biệt La Gi vào Thảo Điền, sống những ngày cuối đời.   

Tân An, 2005.                                                     
Đoàn Thuận.  


.

VỀ VƯỜN

Ba mươi năm lẻ làm giáo viên
về vườn xa lớp vắng bạn hiền
dăm pho sách cổ vài chậu kiểng
mai mọc tường đông trúc bên hiên

Huyết áp tuột hoài ngại áo len
lạnh người nhìn lại lối bon chen
lặng yên dưới mái nhà mẹ cũ
xa khuất thầy xưa bao mùa sen.

Tôi có riêng tôi một góc đời
không ai nhìn ngắm sắc hoa rơi
nhà thôn thanh vắng chim rừng đến
ngày tháng theo mùa tự nhiên trôi.

Tiếng sóng biển xa ru bãi bờ
thôn dâu trăng cũ đọng trang thơ
tôi tạc xuân thu vào hồn đá
tìm trong gốc rễ dấu ban sơ.

ĐOÀN THUẬN




VỀ HƯU

Dù ta chưa đến độ chống gậy lê
nương bóng mây qua bờ trúc cỗi
nhưng đến kỳ
nhường lối hoa cho người trẻ tuổi.

Về đọc bài thơ Nôm dưới mái hiên
thương một thời Côn Sơn của Nguyễn Trãi
bao mùa Lệ Chi Viên
trăng ngàn đời soi lên mấy cõi

Nơi vườn cũ già thêm cội mai
không một bóng thông, không một dòng suối
đêm tịnh vắng không trôi
hương nguyệt quế nhẹ qua lối sỏi.

ĐOÀN THUẬN





NGÀY VỀ


Khi mù sương trắng canh khuya
Bên bờ suối vắng, bên kia phố phường.
Ta về, mỏi bước tha phương
Thả áng mây nổi theo trường giang trôi.

Ta phiêu du nửa đời rồi.
Sông mênh mang lẫn trùng khơi gọi mùa.
Bỏ miền phố phủ đất xưa.
Núi phong rêu đá, bến thưa cây vàng.

Thôi lên đồi ngóng thu sang.
Hồn mê mỏi với cung đàn viễn phương.
Vỗ tay cười giữa đêm trường.
May mà còn một con đường cùng em.

ĐOÀN THUẬN






NƠI THÔN DÂU

Tôi đã về hưu đâu bao năm
trường cũ kề bên ngỡ xa xăm
lá hoa phương vĩ mùa học trước
như thể rơi đầy cõi trăm năm

Bao ngày mưa nắng cùng bão giông
ta đến ta về bàn tay không
bảng đen phấn trắng hồn yêu trẻ
một tắc lòng quê giữa đục trong

Ai đã ra đi chẳng trở về
buồn vui như gió liễu ven đê
hoàng hoa theo tiếng thời gian vỡ
cát bụi phủ dần lên bến mê

Về với cội mai khóm trúc thưa
giàu có đời cho hương không mùa
nắng mưa sương gió kho vô tận
của cả hôm nay lẫn ngàn xưa.

ĐOÀN THUẬN




VƯỜN XƯA

Ngày cứ dần trôi theo nắng mưa.
Rừng lá dần khô theo bóng mùa.
Người đi bỏ dại bờ xanh trúc.
Cỏ úa thôn dâu lối lau thưa.

Mấy ngõ hoang khuya trăng dạo chơi.
Vắng người cây cỏ không buồn vui.
vắng người sỏi đá không ngày tháng.
Trên dấu chân quen rêu ngủ vùi.

Ta mong mùa sang người trở lại.
Nhặt cúc tàn thu dưới bóng xanh.
Vuờn thơm mấy độ măng thêm trúc.
Người nhớ hay quên giấc mộng lành.

ĐOÀN THUẬN





MÁI XƯA

TÔI

Hoa nở tôi ra đi.
Hoa tàn tôi quay về
Thoang thoảng hương quê dấu giày lấp.

Đường đời qua cao thấp.
Cát bụi ngập sương mù.
Một thuở phiêu du trong nắng mưa

Hưu trí dưới mái xưa.
Ngói đỏ mùa rêu biếc.
Bên hoa nhật nguyệt đời yên hàn.

La Gi,2003




DƯỚI MÁI RÊU

Ta về lợp lại mái rêu,
nghe hương đất cũ ngoài lều gió mây,
bụi tro lạnh phủ bao ngày.

Một đời làm thợ làm thầy,
nay xin làm bộ lấy ngày làm đêm,
làm thinh cho lặng lẽ thêm.

          La Gi,2003
         Đoàn Thuận



.







DỊCH COVID 19
__________________________________




DỊCH COVID

 

Corona ở đâu ra.
Gieo mùa Covid gần xa đất trời.
Tóc tang phiền muộn bồi hồi.
Phận người, cát bụi sẽ dời về đâu ?

Buồn đau trước cảnh bể dâu.
Lời than thay tiếng nguyện cầu an nhiên.
Mộ phần bốn triệu dân hiền.
Lây lan trăm triệu, mọi miềm cách ly.

Lệ rơi vô hạn biên thùy.
Năm châu bốn biển sầu bi ngất trời.
Kiếp nghèo phận mỏng chơi vơi.
Kẻ giàu quyền thế cũng tơi tả đời.

Covid 19 lên ngôi.
Toàn quyền biến đổi sân chơi cõi người.
Sinh bầy chính trị đười ươi.
Dịch như giặc cướp nụ cười héo hon.

Thảo Điền, 2021
ĐOÀN THUẬN






BỤI THỪA


Corona khắp địa cầu.
Đột nhiên vào Mỹ gieo sầu muôn dân.
Mầm lây Covid lan dần
Alpha Châu Mỹ vượt tầng không gian.

Châu Âu bùng phát lan tràn.
Dịch lây người chết bất an nghìn trùng.
Châu Phi, Châu Á, Úc, Trung.
Tử vong ca nhiễm mọi vùng gia tăng.

Delta Ấn Độ sông Hằng.
Biến thiên khắp cõi địa tằng bể dâu.
Lương Dân lánh dịch Năm Châu.
Du cư sơ tán dãi dầu nắng mưa.

Kiếp nghèo như hạt bụi thừa.
Nương theo sương khói, gió đưa qua đời.
Hương nhang phả mặt ma hời.
Mồ hoang thấm ướt lệ trời phiêu linh.

ĐOÀN THUẬN




CÕI TẠM


Đời như Cõi Tạm mê mờ.
Người qua ở trọ bến bờ tử sinh.
Kẻ theo cát bụi phiêu linh.
Giữa lòng vạn hữu mộng tình vấn vương.

Bờ mê Con Đỏ cười buồn
Dân Đen bến giác thác nguồn bể dâu.
Tóc tơ trắng lụn mái đầu.
Xuân xanh mai một lưu cầu một mai.

Niệm thầm nhẹ bước tuyền đài.
Dù đời huyễn hoặc hình hài kiếp sau.
Dù cho covid dịch Tàu.
Lây lan khắp chốn một màu thê lương.

Dân nghèo ngụ lại quê hương.
Kẻ đi kiếm sống tha phương cuối trời.
Người rời cõi tạm qua đời.
Trầm hương nhang khói thay lời biệt ly.

ĐOÀN THUẬN






NHƯ CÁT BỤI.


Từng ngày Đại Dịch lan mau.
Tử vong ca nhiễm tăng cao mọi miền.
Lương dân nghèo khổ muộn phiền.
Giảm nguồn vui sống, thiếu quyền làm ăn.

Tử sinh một lẽ thường hằng.
Trời làm bão lũ tan băng cháy rừng.
Bạo quyền tăng trưởng không ngưng.
Thêm bầy dịch tặc chống lưng tung hoành.

Dân đen rời mảnh đất lành.
Di cư như thể lữ hành phiêu du.
Gió sương cát bụi mịt mù
Lần mò về cõi thiên thu vĩnh hằng.

Thủ Thiêm,2021
ĐOÀN THUẬN



CHIẾC LÁ MÙA DỊCH


Ngoài hiên chiếc lá vàng rơi.
Chạm vào vách cũ, kẹt nơi khe tường.
Lá thầm nhìn xuống lề đường.
Rêu phong thềm gạch, bụi vương vĩa hè.

Hẻm dài lặng tĩnh vắng hoe.
Không ai qua lại đi về phố quen.
Cách ly, nhà cửa cài then.
Người như kẹt giữa ánh đèn âm u.

Gió chiều thu thổi vi vu.
Ru đưa chiếc lá bay vù xa khơi.
Lá đi bỏ lại bụi đời.
Lìa xa bóng dáng ma hời rình đêm.

Tử vong mùa dịch nhiều thêm.
”Ép không ép một” ép mềm xác thân.
Khắp nơi thấp thoáng tử thần.
Không tàn vì dịch, vì bần cùng thôi.

Lá nương theo áng mây trôi.
Dù vàng úa, vẫn về trời thênh thang.
Người chìm trong cảnh tóc tang.
Dù ly cách, vẫn lệ tràn thấm khăn.

ĐOÀN THUẬN



 





KẺ TỰ HÀO
NGƯỜI ĐỚN ĐAU.


Siêu Covid 19
lây lan từ Bắc Phương.
Nhưng y tế Hải Dương
vô Sài Gòn “chống dịch”.

Đi chuyên cơ thanh lịch.
Ở khách sạn năm sao.
Lơ lớ giọng Ba Tàu.
Hô hào “như chống giặc”.

Covid hay dịch tặc
gây nhiễm dịch tử vong.
Phong tỏa toàn cộng đồng.
Thành phố mang tên Bác.

Công an cùng cảnh sát.
Ngăn giao dịch giao thông.
Cấm chợ nhỏ hàng rong.
Dân Đen thêm khốn khó.

Người tạm cư ở trọ,
từng kiếm sống tha phương,
nay “Bắc tiến” hồi hương.
về quê xưa đất cũ.

Cùng Bắc Phương xuất xứ.
Kẻ vào Nam tự hào.
Người về Bắc đớn đau.
Khi Đại Dịch “biến thể”.

Thảo Điền, 2021
ĐOÀN THUẬN




“CHỐNG DỊCH
như
CHỐNG GIẶC”

“Chống dịch như chống giặc”.
Đoàn tình nguyện Hải Dương.
lên chuyên cơ bất thường,
vào thành Hồ “chống dịch”.

Ở khách sạn du lịch,
nhìn đại dịch lan mau,
giơ tay cao tự hào
giãn cách để “chống giặc”.

Covid như dịch tặc
”giãy chết” ở Bắc Giang.
Lê Ánh Dương hân hoan
tưởng “tư bản giãy chết”.

Miền Nam nay nhiều “Chệt”
”Tư bản Đỏ” “nội xâm”.
Đoàn Hải Dương quyết tâm:
”chống giặc” đến “giãy chết”.

Lên đường từ vùng Chệt.
Với lọ Sinopharm.
Vào “chi viện Miền Nam”.
Khi dịch lây dữ dội.

Phong tỏa toàn xã hội.
Cách ly từng gia đình.
Từ Phố Hồ Chí Minh.
Trên vạn người “Bắc tiến”.

Nhưng không phải chi viện.
Bị mất việc, đói nghèo.
Về quê xin ăn theo.
Tránh “Đại Dịch biến thể”.

Thảo Điền, 2021
ĐOÀN THUẬN





  

 

LƯƠNG DÂN
qua
MÙA COVID.

Khoảng trời mây trắng trên cao.
Vi vu gió lạnh thổi bao nỗi niềm.
Vườn hoa vắng lặng tiếng chim.
Hàng rong chợ nhỏ im lìm lời rao.

Cách ly phong tỏa chắn rào.
Chặn dòng Covid chuyển màu lan nhanh.
Đường đời xuôi ngược lạnh tanh.
Khiến cho cuộc sống dân lành khó khăn.

Vùng khoanh chợ cấm sông ngăn.
Nhưng người nhiễm dịch số tăng cao dần.
Bao người nằm dưới mộ phần.
Bao người nằm bệnh bần thần sầu bi.

Dalta dịch chẳng biên thùy.
Âm thầm biến thể lan đi mọi miền.
Lương dân khốn khó triền miên.
Tìm đâu giây phút an nhiên ở đời.

Thảo Điền, 2021
ĐOÀN THUẬN




NỖI ĐAU
trước
MÙA COVIA.

Phố ngoài xóm chợ cách ly.
Công viên phong tỏa hoa quì dưới sương.
Bóng người thưa thớt trên đường.
Khẩu trang mặt nạ lạ thường, ai quen ?

Nhà bên khép cửa cài then.
Đôi lời hát nhỏ thầm chèn qua song.
Nhiều nơi giãn cách cộng đồng.
Ngại ngần Covid chơi rong ngang đời.

Delta biến thể khắp nơi.
Khăn tang hỏa táng khói trời như mây.
Mộ phần cát bụi phủ đầy.
Hồn xiêu phách lạc chốn này cõi kia.

Chỉ còn đôi tấm mộ bia.
Ghi tên khắc tuổi người chia ly người.
Lệ rơi tắt lịm nụ cười.
Lòng đau đâu thể theo mười phương buông.

Thảo Điền,2021
ĐOÀN THUẬN



 

NỖI  ĐẮNG CAY


Im lìm hẻm nhỏ sớm mai.
Không ai qua lại, chẳng ai rao hàng.
Chỉ sương mờ bóng hành lang.
Đôi con chim sẻ nhẹ nhàng bay đi.

Xóm nghèo khép cửa thầm thì.
”Ở đâu ở đó”, cách ly tại nhà.
Nhìn chim thẳng cánh bay xa.
Sương mai dưới nắng hơi phà theo mây.

Sao đời lắm nỗi đắng cay.
Tang thương vì dịch, phanh thây vì nghèo.
Số phần sợi chỉ mành treo.
Lương dân như thể bọt bèo trôi sông.

Chim trời vào cõi mênh mông.
Người nay quanh quẩn trong lồng nhà ngang.
Bốn phương Đại Dịch lan tràn.
Quê hương lâm cảnh tóc tang đau buồn.

Gò Vắp, 2021
ĐOÀN THUẬN





 






VỀ QUÊ LÁNH DỊCH

Đoàn người áo vải thô sơ.
Bị mang túi xách xe thồ về quê.
Gió tung cát bụi bốn bề.
Ngày đi đêm thức bên lề đường xa.

Ngày nao rời đất quê nhà.
Con thơ gửi lại mẹ già dưỡng nuôi.
Vô Nam tần tảo ngược xuôi.
Tạm cư ở trọ buồn vui âm thầm.

Tha phương cuộc sống thăng trầm.
Kiếp nghèo như hạt bụi lầm bến mê.
Không nghề thiếu vốn, làm thuê.
Muộn phiền tủi phận não nề đau thương.

Nay làn covid Bắc phương.
Nhiễm lây người chết, ngăn đường tiến lui.
Bao người chia sẻ ngọt bùi.
Cũng đành từ giã ngậm ngùi hồi hương.

Thủ Đức,2021
ĐOÀN THUẬN




 

NGHĨA TÌNH QUÊ MẸ

Nhà xưa đã bị di dời.
Cha vào cõi hạc bên trời vắng xa.
Lại thêm khuất bóng mẹ già,
Khuất vườn rau cải, mái nhà bên sông.

Xuôi dân lưu lạc phiêu bồng,
du cư kiếm sống long đong xứ người,
xa xôi bông cải xinh tươi,
đôi tay gầy guộc, nụ cười hiền xưa.

Dù đời dầu dãi nắng mưa,
tình làng nghĩa xóm vẫn chưa phai mờ.
Bên nôi vẫn tiếng ầu ơ,
ru câu lục bát ngày thơ ấu buồn.

Dịch giờ nhiễm khắp thị trường.
Bao người thất nghiệp tìm đường về quê.
Thân nghèo kiếp sống não nề.
Ăn nhờ ở đậu trên quê hương mình.

Đâu còn điều kiện mưu sinh.
Chỉ còn nước mắt nghĩa tình sẻ chia.

Gò Vắp,2021




LƯU LY

Lưu Ly, hoa đẹp mang tên.
Hương theo gió thoảng bồng bềnh về đâu.
Bỏ quên đôi đóa phai màu.
Dù cùng tươi thắm dưới bầu trời xanh.

Bao đêm khuya lạnh sau mành.
Lá hoa thức ngủ yên lành trong sương.
Ngày lên nắng ấm muôn phương.
Đậm màu hoa dại, xanh tường rêu hoang.
Lưu cầu đời chẳng ly tan.
Sương mai hương sớm về ngàn phiêu diêu.

Giờ đây phường phố quạnh hiu.
Từng nhà giãn cách lắm điều đắng cay.
Người nghèo sống tạm qua ngày.
Người tàn hơi thở buông tay qua đời.

Lưu ly sinh tử, vậy thôi.

Gò Vắp, 2021
ĐOÀN THUẬN



 

 

SỚM MAI BUỒN

Tịnh yên một sớm mai buồn.
Xa xôi văng vẳng tiếng chuông nhà thờ.
Hiên ngoài chim ngói bâng quơ
Để rơi tiếng hót xuống bờ cỏ xanh.

Vi vu gió thoảng âm thanh.
Chạm nhành liễu rũ cuối hành lang rêu.
Nghe như tiếng mõ nhịp đều.
Lời kinh tụng niệm, giọng thều thào run.

Dịch lây nhiễm khắp mọi vùng.
Tử vong nghèo đói muôn trùng khổ đau.
Người rời đất cũ nghẹn ngào.
Kẻ theo cát bụi lẫn vào thiên thu.

Lặng thầm nhang khói âm u.
Tại nhà kín cửa nơi khu phố phường.
Dân đen tủi phận lệ tuông.
Tiếng chuông nhịp mõ chia buồn cùng ai ?

Bến Cát,2021
ĐOÀN THUẬN



 

ĐÊM MƯA LẠNH


Mưa đêm lành lạnh phố phường.

Vi vu tiếng gió hú buồn nơi xa.
Hẻm con cao thấp tầng nhà.
Vô tình che khuất bao la bầu trời.

Ngờ như vật đổi sao dời.
Thị trường nhộn nhịp đã rời phố quen.
Mưa bay mờ nhạt ánh đèn.
Âm u bóng tối cài then dòng đời.

Dưới mưa bùn đất rã rời.
Dân nghèo phận bạc bời bời xót đau.
Mưa buồn tuông giọt lệ trào.
Khi mùa covid lan mau mọi miền.

Lâm râm mưa rụng ngoài hiên.
Khe rêu đá cũ tịnh yên bên thềm.
Không người vắng lặng đường đêm.
Phố nhà phong tỏa,mưa thêm u hoài.

Gò Vắp, 2021
ĐOÀN THUẬN




MƯA ĐỔ LỆ

Sài Gòn tầm tã mưa rơi.
Đường xe đại lộ nước trôi thành dòng.
Thản nhiên cuồn cuộn thong dong.
Tràn vào hè phố tịnh không bóng người.

Rì rào trên khóm hoa tươi.
Công viên im bặt tiếng cười bước chân.
Nhà hàng khách sạn cao tầng.
Hẻm con quán trọ xa gần lạnh tanh.

Ào ào mưa nhiễm dịch nhanh.
Từng nhà kín cửa, khắp thành cách ly.
Người nghèo đói, chẳng còn gì.
Dầm mưa rời khỏi kinh kỳ về quê.

Âm mưa buồn rụng lê thê.
Nghe như đổ lệ tái tê cõi lòng.
Đưa người về bến tĩnh không.
Nỗi niềm ly biệt theo bồng bềnh mây.

Gò Vắp, 2021
ĐOÀN THUẬN






     tranh của Gustave Courbet

 

CUNG BẬC BUỒN

Ngưới về cát bụi thêm đông.
Bỏ buông phận bạc xuống dòng thời gian.
Thả trôi bao nỗi phũ phàng.
Bay qua thiên đỉnh địa đàng bể dâu.

Còn đây tang tóc u sầu.
Dịch dòng âm phủ vào bầu dương gian.
Luồn theo dịch, lũ bạo tàn.
Ngăn nguồn sinh sống, nghèo nàn ly tan.

Dân Ngoài thất nghiệp lang thang

Ăn bờ ngủ bụi dặm ngàn gió sương.
Dân Trong trụ lại phố phường.
Từng nhà giãn cách, thiếu lương thực dùng.

Bao người lặng lẽ lâm chung.
Biệt ly, giọt lệ rơi cung bậc buồn.

Thảo Điền,2021
ĐOÀN THUẬN



  

LỜI NIỆM BUỒN

Nhà thờ buông thả giọt chuông.
Ngưới về cát bụi, phố phường lặng thinh.
Xa đưa tiếng mõ tụng kinh.
U trầm niệm tưởng bóng hình phiêu du.

Sương pha phả lạnh trời mù.
Hoa tàn hương nhạt giã từ đất xưa.
Mùa trôi ngày tháng nắng mưa.
Người đi dưới bóng bụi thừa chơi vơi.

Vô thường sinh tử ở đời.
Sao nay covid đùa chơi phận người.
Alpha kéo lệch môi cười.
Delta biến thể để mười phương đau.

Hà Nội lây nhiễm dịch Tàu.
Thành Hồ phong tỏa một màu bi thương.
Lời kinh nhịp mõ niệm buồn.
Đưa người về cõi ngọn nguồn thiên thu.

Thảo Điền,2021
ĐOÀN THUẬN

 

LẶNG  BUỒN.


Lặng yên xóm mạc vào đêm.
Bóng chiều mờ nhạt bên thềm gạch rêu.
Đốm hồng từng giọt nhẹ hều.
Lóe lên ánh sáng như khêu bếp tàn.

Sa mù bến nước sang ngang.
Con đò neo lạnh dưới hàng liễu dương.
Dòng sông mờ ảo gió sương.
Trôi đưa bèo bọt về phương trời nào.

Chân trời rơi một vì sao.
Như rơi số phận người vào thinh không.
Giữa mùa giãn cách cộng đồng.
Trong thời Đại Dịch tỏa phong cõi người.

Núi rừng đâu mãi xanh tươi.
Con người lịm tắt nụ cười hồn nhiên.
Lẽ nào u uất muộn phiền.
Xóa tan ước vọng bình yên ở đời !

Trời cao buông giọt sương rơi.
Bốn phương tám hướng chơi vơi lạnh buồn.

Tân Nhơn Phú,2021
ĐOÀN THUẬN



*